Nguồn:
Nhân việc nhà thơ Bằng Việt (người trong ban chung khảo)
công bố trên báo Nông thôn Ngày nay (website báo Nhân dân có đưa lên mạng, nhờ
trang web talawas nối mạng nên nhiều người trong và ngoài nước mới biết) thông
qua hình thức phỏng vấn về những bất cập, những bê bối của việc tuyển chọn thơ
kia. Trong bài trả lời phỏng vấn này, anh Bằng Việt tiết lộ: “Bài thơ ‘Nguyễn Trãi trước giờ tru di’ của
Trần Mạnh Hảo đã có trong danh sách tuyển chọn, bị gạch đi thay bằng bài thơ
‘Đêm mưa’ của Tô Hoàn”. Nhân chuyện này, anh Việt Hùng của đài RFA (Á châu
tự do) đã phỏng vấn chúng tôi. Bài phỏng vấn này đã được các trang web hải ngoại
nối mạng, nên nhiều người đọc thông cảm, đã phôn cho chúng tôi, hỏi rằng: tìm
bài thơ “Nguyễn Trãi trước giờ tru di” ở đâu? Vậy trước khi có một vài nhận xét
về tuyển tập thơ trên, chúng tôi xin chép ra đây bài thơ “Nguyễn Trãi trước giờ
tru di” của mình và bài thơ “Đêm mưa” của Tô Hoàn.
http://www.talawas.org/talaDB/showFile.php?res=9806&rb=0101
30
BÀI THƠ HAY VÀ 70 BÀI THƠ DỞ NHẤT THẾ KỶ XX
Trần Mạnh Hảo
Tập sách 100 bài thơ hay nhất thế kỷ XX do Trung tâm Văn hoá
Doanh nhân (TTVHDN) và Nhà xuất bản Giáo dục (NXBGD) vừa ấn hành đã bị dư luận
trong nước và ngoài nước phản ứng. Theo lời nói đầu của TTVHDN và NXBGD cho tuyển
tập này, thì đây là cuộc thi bình chọn các bài thơ hay của thế kỷ XX, diễn ra
trong suốt hai năm, có hàng nghìn thí sinh khắp nước và hải ngoại tham gia; cuối
cùng, qua “mắt xanh” của ban chung khảo gồm năm vị: nhà thơ Hữu Thỉnh (trưởng
ban), nhà thơ Phạm Tiến Duật, nhà thơ Trần Đăng Khoa, giáo sư Nguyễn Đăng Mạnh
và nhà thơ Bằng Việt, mới lọc ra “vàng ròng” là 100 bài thơ hay nhất thế kỷ XX
này.
Nguyễn Trãi trước giờ tru di
Trên
đường pháp trường con dâu ta trở dạ
Tiếng
cháu thét chào đời như tiếng nghìn chim lợn báo tang
Đội
ơn vua ban tã lót
Để
cháu khỏi bị chém trần truồng trên thớt!
Ôi
con đường ba họ ta đến nơi thọ hình
Sao
dài hơn đường mười năm Lam Sơn phò Thái Tổ
Ông
Cao Xanh bỏ kinh thành về rừng xưa ở
Nơi
vua lấy đất làm ngai, tình huynh đệ làm long bào
Nơi
ta mót dần xã tắc cho vua như mót lúa
Chừng
như ta đã đi con đường này từ Ải Bắc
Tiễn
cha già hay đưa tiễn đời ta?
Đêm
mưa đá, mưa tròng ngươi, mưa xuống nghìn con mắt
Ôi
xã tắc
CON
ĐƯỜNG NÀO CŨNG DẪN ĐẾN PHÁP TRƯỜNG
BÀN
TAY CHỈ ĐƯỜNG NÀO CŨNG BÀN TAY ĐAO PHỦ?
Thân
tùng bách há phải thân mùng tơi
Mây
trắng xưa ơi
Sao
giờ toàn những đám mây mưng mủ?
Ta
thương xã tắc không mất về tay giặc
Lại
mất về tay bọn nịnh thần
Triều
đình ai cũng là Lê Sát
Mắt
thiên tử như Nam Hải đố ai lấp đầy giai nhân?
Luân
thường đem gác gác bếp
Chỉ
ba ông đầu rau nhìn thấy dân
Ôi
Hàn Tín, Bành Việt, Phàn Khoái
Gió
trung thần đang hú gọi hồn đi
Dưới
vòm trời Lã Hậu
Mưa
tru di đỏ rực gió lăng trì…
Vẫn
biết vân cẩu bày trò sinh diệt chơi
Lịch
sử cợt đùa sai đúng
Sao
cứ quặn lòng nhìn đám trẻ lôi thôi
Đội
ơn vua không trói chúng
Tội
chết chém còn được vua ban đao phủ cõng
Giá
chỉ mình ta chui qua lỗ nẻ giữa đất dày trời cao?
Ừ,
mây mù vừa làm cỏ sạch trăng sao
Chợt
gió dữ tru di mây trời từng đám
Mặt
trời văng ra như đầu thánh hiền bị trảm
Sao
phép nước dùng dao chém đại thần
Để
chém trẻ sơ sinh?
Mai
sau lấy gì chém sông núi?
Đầu
người đang rụng quanh ta
Máu
là nước lũ Hồng Hà dời non
Hồn
ta là đứa trẻ con
Đi
vào cõi chết vẫn còn ngu ngơ
Nỗi
oan không chết bao giờ
Ta
còn bị chém dọc bờ thế nhân…
Trần Mạnh Hảo
Sài Gòn, tháng 9-1993
(http://www.gio-o.com/TranManhHaoTho1.html)
Đêm mưa
Con
về thăm mẹ đêm mưa
Mới
hay nhà dột gió lùa bốn bên
Bao
nhiêu hạt thẳng hạt xiên
Đã
rơi vào mẹ những đêm trắng trời?
Con
đi đánh giặc suốt đời
Mà
không che nổi một nơi mẹ nằm!
Tô
Hoàn
(100
bài thơ hay nhất thế kỷ XX, trang 77)
Một điều rất lạ là hai vị trong ban chung khảo, nhà thơ Bằng
Việt và nhà thơ Phạm Tiến Duật (cả hai vị đều có thơ được chọn) lại chê tuyển tập
thơ quý hoá này là hỏng, là ẩu. Đây là lời anh Bằng Việt trong bài đã dẫn: “Trong 100 bài hay nhất thế kỷ XX… tôi thấy
chỉ có 50% là xứng đáng… Một cuốn sách mà 50% chưa đạt thì thật khó chấp nhận”.
Như vậy, dựa vào ý anh Bằng Việt, chúng tôi đề nghị TTVHDN và NXBGD lần sau tái
bản, nên đổi nhan đề cuốn sách, từ 100 bài thơ hay nhất thế kỷ XX thành 50 bài
thơ hay nhất và 50 bài thơ dở nhất thế kỷ XX mới đúng! Nhà thơ Phạm Tiến Duật
trong bài “Chọn bài thơ bình thường
thành… hay nhất thế kỷ XX” in ở trang 17, báo An ninh Thế giới Cuối tuần số
68, 3-2007, cũng đồng ý với ý kiến của nhà thơ Bằng Việt ở trên. Anh Phạm Tiến
Duật tỏ ra rẻ rúng, coi thường chính sản phẩm mình tham gia tuyển chọn: “Tôi
chưa hài lòng vì tôi không cảm thấy vinh dự lắm khi đứng trong tuyển tập 100
bài thơ hay nhất thế kỷ XX”.
Cũng trên trang báo An ninh Thế giới Cuối tuần này, bên cạnh
bài của anh Phạm Tiến Duật là bài “Cơ
quan Hội Nhà văn cảm thấy như thể bị mắc lừa” của nhà thơ Vũ Quần Phương -
chủ tịch hội đồng thơ Hội Nhà văn Việt Nam - người có bài được tuyển chọn trong
tuyển thơ, gay gắt và “phủ nhận sạch
trơn” công lao của TTVHDN và NXBGD, cũng như công lao của ban chung khảo do
nhà thơ Hữu Thỉnh - chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam cầm đầu, bằng những lời “ác chiến” sau: “Việc TTVHDN và NXBGD công bố 100 bài thơ hay nhất thế kỷ XX thì tôi
cho rằng, đó là 100 bài thơ hay của các doanh nhân mà thôi. Mà đây mới chỉ là
100 tác giả thì chính xác, chứ 100 bài thơ hay thì chưa”… “Tôi thấy có một điều đáng lo là, việc rối
loạn tiêu chí trong tuyển chọn 100 bài thơ hay nhất thế kỷ XX. Nếu NXBGD in ra
và đưa xuống các nhà trường thì chính các thầy cô giáo và học sinh nhầm lẫn. Đó
là điều nguy hiểm. Cuộc bình chọn này cũng khiến cơ quan Hội Nhà văn cảm thấy hụt
hẫng như thể bị mắc lừa”.
Người có bài phê phán tập 100 bài thơ hay nhất thế kỷ XX
nhanh nhất in trên báo điện tử talawas và một vài báo trong nước là nhà phê
bình văn học Phạm Xuân Nguyên. Anh Nguyên cho tuyển tập này là phản… thơ! Ba
nhà thơ vinh dự có bài trong tuyển tập này là Thanh Thảo, Nguyễn Trọng Tạo và
Hoàng Hưng cũng lên tiếng chê tuyển thơ này trên báo chí trong nước. Các vị này
cho rằng tuyển thơ thế kỷ XX mà thiếu vắng hầu hết các nhà thơ của Việt Nam Cộng
hòa, từc Sài Gòn cũ, cũng như các nhà thơ Việt Nam di tản là một thiếu sót lớn.
Trên website Đàn Chim Việt, tác giả Nguyễn Văn Lục cũng dành hai bài phê phán
tuyển thơ này.
Chúng tôi hoàn toàn tán đồng ý kiến của các nhà thơ, nhà phê
bình trên sau khi đã có trong tay tập 100 bài thơ hay nhất thế kỷ XX. Nay,
chúng tôi xin phép được nêu ra một số nhận xét, ngõ hầu để các nhà tuyển chọn,
những “con mắt xanh” làm nghề chấm giải thưởng văn học, xét tuyển thi phẩm, văn
phẩm cho các tuyển tập rút kinh nghiệm để trả văn học về cho văn học, trả thơ về
cho thơ, nghĩa là phải lấy cái hay làm tiêu chí khi tuyển lựa giải thưởng hay
tuyển chọn thơ cho các thi tuyển.
Sau khi đọc tới ba lần tập 100 bài thơ hay nhất thế kỷ XX,
chúng tôi thấy tiêu chí chọn bài của ban tuyển chọn hầu như là tiêu chí chính
trị. Có tới hơn ba mươi bài thơ trong tuyển thơ lấy đề tài “chiến tranh cách mạng”, tức đề tài chính trị làm nội dung phản ánh
là hơi bị… nhiều. Ngay cả việc ban tuyển chọn đưa một số nhà thơ của Việt Nam Cộng
hòa (1954-1975) từng có thành tích “chống cộng” là Vũ Hoàng Chương, Nguyên Sa,
Đinh Hùng… để phục vụ Nghị quyết 36 về Việt kiều (khúc ruột ngàn dặm) của Bộ
Chính trị cũng là tiêu chí chính trị, quyết không phải tiêu chí thơ; rằng tuyển
thơ công bằng chưa nào, đủ cả Việt Nam Cộng hòa và Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, rất
chi là “mặt trận”! Còn các trường hợp các nhà thơ Á Nam Trần Tuấn Khải, Phạm
Thiên Thư, Bùi Giáng của Sài Gòn cũ được đưa vào tuyển vì cụ Á Nam từng là Việt
cộng nằm vùng; Phạm Thiên Thư, Bùi Giáng không có “tì vết” chống cộng! Thế thì
còn các tác giả thơ “thứ dữ” của Việt Nam Cộng hòa như các vị: Quách Tấn, Đông
Hồ, Bàng Bá Lân, Kiên Giang, Nhất Hạnh, Cung Trầm Tưởng, Tuệ Mai, Nguyễn Đức
Sơn, Tô Thuỳ Yên, Thanh Tâm Tuyền, Nhã Ca, Nguyễn Bắc Sơn, Trụ Vũ, Du Tử Lê, Trần
Dạ Từ, Viên Linh, Trần Tuấn Kiệt, Quách Thoại, Tường Linh, Luân Hoán, Hà Huyền
Chi, Hà Thúc Sinh, Vi Khuê, Vũ Hữu Định, Nguyễn Tất Nhiên, Vương Đức Lệ, Kim Tuấn,
Nhất Tuấn, Hoàng Anh Tuấn, Cao Thoại Châu, Cao Tần (Lê Tất Điều)… lại không có
mặt trong một tuyển thơ hay của Việt Nam thế kỷ thứ XX là sao? Chưa kể các nhà
thơ Việt hải ngoại như Nguyễn Hồi Thủ, Khế Yêm, Thường Quán, Hoàng Xuân Sơn,
Đinh Linh… cũng bị bỏ rơi?
Có rất nhiều bài thơ dở trong 100 bài thơ hay nhất thế kỷ XX
được chọn với tiêu chí chính trị, chứ không phải tiêu chí thi ca. Chúng tôi xin
lần lượt chứng minh.
Trường hợp thứ nhất là một bài thơ dở của Sóng Hồng, bài “Đọc thơ Ức Trai”. Xin chép nguyên bài
thơ từ các trang 84, 85, 86 của tuyển thơ đã dẫn.
Đọc thơ Ức Trai
Đêm
đông sương lạnh
Quanh
nhà tiếng trùng ra rả
Dưới
đèn đọc thơ Ức Trai
Canh
khuya nói chuyện với người xưa
Và
thức tỉnh một thời qua
Hơn
năm trăm năm trước
Nhân
dân ta vùng lên đuổi quân xâm lược
Ai
chí khí hiên ngang
Hơn
đời mưu lược
Cứu
dân cứu nước, nhớ lời cha
Một
lòng ưu ái vì dân tộc
Lo
trước vui sau giữ nếp nhà
Mười
năm quyết chiến
Ngang
dọc xông pha
Lấy
nhân nghĩa chống bạo tàn
Dựa
sức dân dẹp tan kình ngạc
Vung
gươm khiếp vía quân Minh
Múa
bút mềm gan tướng giặc
Sau
khi sóng kình im bặt
Chí
đang hăng dựng nước buổi thanh bình
Vì
đâu phải lui về núi cũ
Bạn
với cúc tùng cho ngày tháng trôi qua
Tưởng
thoát chốn phồn hoa
Mặc
ai bon chen danh lợi
Đau
đớn nhìn việc đời biến đổi
Như
mây trôi nước chảy xuôi dòng
Lúc
thuyền ai hờ hững ở trên sông
Nhưng
duyên nợ nước mây chưa trọn
Chí
lo việc lớn vẫn hăng say
Bi
kịch Lệ Chi Viên để lụy bậc thiên tài
Hận
anh hùng, nước biển đông cũng không rửa sạch
Nay
đọc thơ Người
Lòng
ta đau xót
Thấm
từng câu:
Yêu
nước thương dân
Tâm
hồn cao khiết
Sự
nghiệp muôn năm vẫn sáng ngời
Ù
ù gió thổi bên ngoài
Trăng
bạc rung rinh cành sấu
Trông
ra tưởng thấy Ức Trai
Trên
đỉnh Côn Sơn đang mỉm cười
Nhìn
con cháu thời đại Hồ Chí Minh anh dũng
Đã
lấy máu viết nên Bình Tây đại cáo
Sóng
Hồng
Hà
Nội, mùa đông 1963
Có lẽ “quần chúng yêu
thơ” và ban chung khảo tuyển chọn của nhà thơ Hữu Thỉnh và nhà văn Lê Lựu
khi chọn bài thơ này của Sóng Hồng đã không phân biệt được sự khác nhau về thể
loại giữa “thơ” và “tấu” chăng? “Đọc thơ Ức Trai” của Sóng Hồng thực ra chỉ là một bài tấu cũ, tức
nói có vần, tịnh không có một câu thơ. Có lẽ bài này được tuyển chọn chỉ vì
Sóng Hồng là bút danh của ông Trường Chinh – lãnh tụ Đảng Cộng sản Việt Nam -
được coi như ngang hàng với ông Lê Duẩn, chỉ xếp dưới ông Hồ Chí Minh mà thôi?
Ví dụ, chúng tôi xin ngẫu hứng theo bài tấu trên của ông Sóng Hồng mà “tấu” thử
vài câu “thơ” về Nguyễn Du chơi :
Đọc thơ Tố Như
Đêm
thu lá vàng
Ngoài
trời qụa kêu quang quác
Dưới
trăng đọc thơ Tố Như
Một
mình ta ngồi thưa chuyện với tiền nhân
Người
đã làm mất ngủ nhân dân suốt hai trăm năm nay
Thuở
xưa đất trời đảo lộn
Nhân
dân khổ ải vì chế độ phong kiến
Ai
đã lấy tâm hồn để cứu khổ muôn dân
Người
đó là Nguyễn Du thiên tài
Đã
viết nên Truyện Kiều tuyệt tác
Nay
ta soi vào còn thấy nỗi thương đời cồn cào
Từng
câu thơ hay lắm lắm
Đọc
Tố Như mà ứa lệ nhân dân…
Những câu thuần nói như trên, dù tới tấp xuống dòng cũng
không thể gọi là thơ được!
Trường hợp thứ hai để minh chứng cho tiêu chí chính trị khi
tuyển chọn 100 bài thơ hay nhất thế kỷ XX, chúng tôi xin chép nguyên bài thơ
“Sư đoàn” của Phạm Ngọc Cảnh in ở các trang 14, 15, 16 trong tuyển thơ đã dẫn:
Sư đoàn
Sẽ
có những sư đoàn thép
Bất
kỳ nơi đâu
Không
khuất phục tù đầy chém giết
Nơi
đâu
Người
sống nợ nần người đã chết
Bất
kỳ nơi đâu, từ một cây “mút nhét”
Một
sải xuồng bơi
Một
nọc ong châm góp làm sự nghiệp
Gốc
tre xanh thắng trận cả ba đời
Ba
mươi triệu tấm lòng xông ra tuyến lửa
Vạch
lối điều quân
Vai
cháy xe thồ
Trồng
cây xanh che chở
Mỗi
bước quân đi
Đánh
trận trường kỳ
Đêm
trước nấp trong lùm bắn tỉa
Sớm
sau dàn trận chính quy
Đến
trận bão hiệp đồng cả nước
Mỗi
sư đoàn mang gió lốc bay đi
Đất
giải phóng thênh thang
Sẽ
cho ta dàn đội ngũ sư đoàn
Phía
trước gọi ta
Những
Điện Biên, vòng đai thép tung ra làm chiến dịch
Đòn
gánh hậu phương vượt đèo đi phản kích
Hành
quân
Hành
quân
Trùng
điệp những sư đoàn
Đi
lên phía bắc
Tràn
xuống phía nam
Những
vị tướng lại cầm quân đi đánh giặc
Trải
bản đồ
Còn
nguyên
Vạch
chì đỏ thắt quanh hầu giặc Pháp
Bài
học chiến tranh nhân dân
Lại
tiếp
Trang
Ấp Bắc, Plâyme
Và
chiến công trên ngực áo những binh nhì
Đất
nước sẽ cho ta
Những
chùm con số đẹp
Làm
tên gọi khai sinh sư đoàn thép
Này
đây
Doi
cát Cửu Long xanh
Sư
đoàn Châu thổ
Giữa
bãi sú, rừng tràm
Vụt
đứng dậy sư đoàn Nam bộ
Sư
đoàn Tây Nguyên
Từ
hầm chông bẫy đá chông tên
Này
đây Cực Nam, Phan Rang, Phan Thiết
Này
đây Quãng Ngãi, Phú Yên
Trên
nguồn xa Ô Lâu, Thạch Hãn
Sẽ
tiến về
Sư
đoàn Trị Thiên
Lại
có một ngày
Mọi
cửa ô xanh Sài Gòn hớn hở
Như
Hà Nội đã từng
Ba
mươi sáu đường hoa tung sóng đỏ
Phất
rừng cờ thổi hồng ngọn gió
Đón
con em
Đón
những sư đoàn
Mang
chiến thắng trở về
Rập
bước
Ca
vang!
Phạm
Ngọc Cảnh
1966
“Sư đoàn” là “bài thơ” viết theo trường phái “tấu thi” của
Sóng Hồng: nghĩa là toàn những câu nói xuống dòng liên tù tì, toàn những câu
nói rất sáo, mà là sáo cũ; thơ gì mà toàn khẩu hiệu, rất đao to búa lớn, quát
tháo inh ỏi. “Sư đoàn” tịnh không có một câu thơ. Một số người hoài nghi: không
biết nhà thơ Phạm Ngọc Cảnh có ân oán giang hồ gì với “hàng nghìn quần chúng
yêu thơ” và năm vị trong ban chung khảo tuyển thơ này hay không, mà họ lại chơi
xỏ ông bằng cách chọn bài thơ dở nhất của ông vào tuyển thơ 100 bài thơ hay nhất
thế kỷ XX, trong khi ông còn có vài ba bài thơ hay khác lại dìm đi, không chọn?
Trường hợp thứ ba, chúng tôi muốn chứng minh tiêu chí chính
trị là tiêu chí tuyệt đối của ban tuyển chọn để tuyển thành tập thơ này. Đấy là
bài thơ “Cô bộ đội ấy đã đi rồi” của
chính một nhà thơ trong ban chung khảo: anh Phạm Tiến Duật. Nhưng lạ nhất là
chính nhà thơ Phạm Tiến Duật lại chê bai chính bài thơ do anh và bốn thành viên
chung khảo cùng “hàng nghìn quân chúng
yêu thơ” đã chọn. Anh Duật viết về bài thơ này của anh trong bài báo đã dẫn:
“Sở dĩ tôi nói chưa hài lòng vì họ lựa chọn
bài mà tôi thấy không thích, thậm chí chỉ ở mức trung bình”. Tại sao bài
thơ anh không thích, anh cho là trung bình, lại được đôn lên thành một trong những
bài thơ hay nhất của thế kỷ XX? Xin chép nguyên văn bài thơ “không thích”, thơ
“trung bình” của nhà thơ Phạm Tiến Duật:
Cô bộ đội ấy đã đi rồi
Cô
bộ đội ấy đã đi rồi
Chuyển
đơn vị vào vùng rừng trong ấy
Em
gái đi, các anh ở lại
Biết
đến bao giờ mới được gặp nhau
Lũng
thì thẳm mà rừng thì sâu
Để
hun hút nhớ nhau biền biệt
Bao
nhiêu bạn bè, bao nhiêu bạn bè thân thiết
Xa
nhau như xa nhau hôm nay
Thôi
em đừng bẻ đốt ngón tay
Nước
mắt dễ lây mà rừng thì lặng quá
Anh
biết nói rồi bao nhiêu vất vả
Tháng
năm dài cùng nhau đi qua
Để
sáu bảy năm em gái xa nhà
Hăm
bảy tuổi chuyện chồng con chưa nói
Cả
một thời trẻ trung sôi nổi
Ở
bên nhau bếp lửa giữa rừng xa
Nhớ
nhau, nhớ nhau ở giữa rừng già
Ngón
tay nóng cầm viên thuốc mát
Cái
đêm đói ngồi nghe chim đắp tát
Con
chó vàng cọ chân em đòi ăn
Nhớ
nhau, nhớ nhau những buổi mưa dầm
Căn
nhà dột tóc em ướt hết
Anh
ngồi nghĩ gì em chẳng biết
Cứ
hát tràn những câu hát bâng quơ
Nhớ
trưa đỉnh đèo ta đứng ngẩn ngơ
Nhìn
mây trắng chân trời ngỡ biển
Biển
Đông thì xa biết ta nhìn chẳng đến
Nhưng
em vui anh kể chuyện em nghe
Trưa
vác gạo ta dừng bên khe
Một
đoàn tù binh đi qua đang đứng ngó
Bên
những thằng người áo quần loang lổ
Bóng
em lồng bóng suối trong veo
Lúc
ấy lòng anh biết mấy tự hào
Tự
hào vì có em ở đây, tự hào vì đất nước
Ở
đây màu hồng xiết bao thân thuộc
Xao
xuyến lòng anh, xao xuyến bạn bè
Đến
chào anh sáng mai em đi
Như
ngày nào chào bà con hàng xóm
Sự
xa cách nhỏ trong sự xa cách lớn
Một
cuộc chia tay trong triệu cuộc chia tay
Rồi
ngày mai xa vắng nơi đây
Em
lại có bao nhiêu đồng đội mới
Trong
chiến tranh một khát khao sôi nổi
Là
nhân dân đoàn tụ muôn đời
Cô
bộ đội ấy đã đi rồi
Phạm
Tiến Duật
Người viết bài này xin van lạy “hàng nghìn quần chúng yêu thơ” theo sự quảng cáo của TTVHDN đã bỏ
phiếu chọn bài thơ “Cô bộ đội ấy đã đi rồi”
của Phạm Tiến Duật và ban tuyển chọn do nhà thơ Hữu Thỉnh cầm đầu, xin thương
xót chúng tôi mà viết bài chỉ giúp chúng tôi xem bài thơ này hay ở chỗ nào, vì
sao nó lại được chọn làm một trong 100 bài thơ hay nhất thế kỷ thứ XX? Riêng
ngu ý của chúng tôi, thì bài thơ này quá dở vì nó chỉ là một bài tấu, chẳng có
một câu thơ hay, lại toàn lời nói sáo ngô nghê, dông dài, lẩm cẩm, mà sáo mới,
khác sáo cũ của bài thơ trên của Sóng Hồng và bài thơ trên của Phạm Ngọc Cảnh.
Thơ, chỉ có hay và dở. Nay, Phạm Tiến Duật xếp bài thơ trên của mình là bình
thường, trung bình, mình không thích, tức thị là thơ dở rồi còn gì?
Trường hợp thứ tư trong tiêu chí chính trị để chọn thơ của
“hàng nghìn quần chúng yêu thơ” và ban tuyển chọn của nhà thơ Hữu Thỉnh là trường
hợp bài thơ “Nói sao cho vợi” của tiến sĩ Thu Trang, nhà sử học, cựu minh tinh
màn bạc từng đóng phim chống cộng Chúng tôi muốn sống, nữ Việt cộng nằm vùng của
Sài Gòn những năm cuối thập niên 50, đầu thập niên 60, Việt kiều yêu nước tại
Paris nước Pháp. Xin chép trọn vẹn bài thơ của nữ sĩ Thu Trang in ở trang 203,
204 tuyển thơ đã dẫn:
Nói sao cho vợi
(Thương
mến gửi các em ở bên nhà)
Paris
tối nay tuyết đổ
Rơi
rơi phủ trắng phố phường
Hoa
đèn tăng phần rực rỡ
Kinh
thành bát ngát sắc hương
Ánh
sáng át hẳn màn sương
Chen
chân trên khắp ngả đường
Vui
tươi trai thanh gái lịch
Hồn
nhiên họ đón xuân sang
Chân
bước mà lòng miên man
Quê
ơi xa cách muôn vàn
Không
khóc mà lòng thổn thức
Nói
sao cho vợi niềm thương
Paris
bát ngát sắc hương
Quê
tôi giờ này ai biết
Chắc
bên mái tranh đạm bạc
Vườn
rau là bãi chiến trường
Tôi
đi giữa vầng ánh sáng
Nhìn
thiên hạ đón xuân sang
nghe
câu hỏi thầm đau buốt
Bao
giờ mùa xuân Việt Nam?
Bao
giờ xuân thanh bình sang?
Mùa
xuân thống nhất quê hương
Mùa
xuân tự do độc lập
Mùa
xuân không đượm tóc tang
Trong
hồn day dứt mênh mang
Quê
tôi miền Bắc miền Nam
Chắc
đang hào hùng chiến đấu
Ngăn
bàn tay giặc hung tàn
Giữa
muôn hương sắc huy hoàng
Tôi
không thấy mùa xuân sang
Hồn
tôi ở phương trời ấy
Tôi
đợi mùa xuân Việt Nam
Thu
Trang
1969
Có thể khi viết bài thơ này, nữ sĩ Thu Trang rất chân thành,
rất xúc cảm. Nếu bài thơ này chỉ nằm trong tập thơ riêng của bà, thì tuyệt
nhiên chúng tôi không dám động tới. Nhưng khi nó đã được “hàng nghìn quần chúng yêu thơ” và nhà thơ Hữu Thỉnh, nhà văn Lê Lựu
cùng tập thể các nhà thơ số một Hà Nội, giáo sư số một Hà Nội tuyển chọn thành
một trong 100 bài thơ hay nhất thế kỷ XX thì nó đã vượt qua cảm xúc chân thành
riêng tư nữ sĩ, mà nó thành tài năng, tài sản quốc gia, thành nghệ thuật, thành
mẫu mực cho thơ hay, đè bẹp hàng vạn bài thơ chưa hay khác! Nó, tức nhiên bài
thơ trên của nữ sĩ phải chịu sự thử lửa của dư luận, điều mà nữ sĩ Thu Trang chắc
chắn không hề muốn. Bởi vì trong đời, bà đã có quá nhiều lĩnh vực thành công,
chẳng dại gì chen chân vào chốn trường văn trận bút để làm trò cười cho thiên hạ.
Nhưng, lỗi là ở “hàng nghìn quần chúng
yêu thơ” do nhà văn Lê Lựu và nhà thơ Hữu Thỉnh dẫn đắt, đã đẩy bà bỏ sở
trường khoa học vốn dĩ của mình, để liều mạng nhảy ùm xuống sông sở đoản của
mình là thơ, để “giơ đầu chịu báng”!
Có nhiều luồng dư luận quanh vụ chọn bài thơ này của bà Thu Trang (và một vị Việt
kiều khác) rằng các anh Lê Lựu, Hữu Thỉnh, Phạm Tiến Duật, Bằng Việt, Trần Đăng
Khoa mỗi lần du Tây, ghé qua Paris luôn luôn được Ban Việt kiều Yêu nước của nữ
sĩ Thu Trang tiếp rước linh đình. Nay, các nhà thơ này tìm cách trả nợ, đã đẩy
bài thơ còn ở dạng báo tường này của nữ sĩ Thu Trang thành một trong 100 bài
thơ hay nhất thế kỷ XX theo kiểu ngụ ngôn La Fontaine: con ễnh ương toan phình
bụng lên thành con bò. Cũng có luồng dư luận bảo, “hàng nghìn quần chúng yêu thơ” và hai ông Hữu Thỉnh, Lê Lựu thực
hiện Nghị quyết 36 của Bộ Chính trị “lôi
kéo khúc ruột ngàn dặm”, nên trong tuyển thơ hay nhất thế kỷ, sao lại quên
bà con Việt kiều? Và nữ sĩ Thu Trang được ưu tiên hơn tỉ lần những Việt kiều “chưa yêu nước” khác như các thi sĩ:
Nguyễn Hồi Thủ, Thường Quán, Khế Yêm, Đinh Linh… Cả hai dư luận trên, dù ban
tuyển chọn tập thơ hành xử theo phương cách nào, xét cho cùng, thì việc đưa những
bài thơ kém cỏi như bài thơ này của nữ sĩ Thu Trang vào tuyển thơ 100 bài thơ
hay nhất thế kỷ XX cũng là hành vi không lương thiện.
Một hành vi không lương thiện khác của “hàng nghìn quần chúng yêu thơ” và hai vị Lê Lựu và Hữu Thỉnh là việc
chọn bài thơ “Cổ Luỹ cô thôn” của nhà
thơ Phạm Thiên Thư, một bài thơ thất ngôn bát cú; xin chép nguyên văn từ trang
202 của tuyển tập đã dẫn:
Cổ Luỹ cô thôn
Một
dãy trường thành trấn ải biên
Còn
viền dương lạnh gác bên triền
Cô
thôn trúc lặng – sương nhòa khói
Cổ
Lũy thành trơ – gió thoảng nền
Buồm
cá nâu vênh - bờ bến đậu
Đàn
cò trắng nổi - cụm tùng lên
“Cô
thôn Cổ Lũy” hư mà thực
Dù
chỉ nghe qua cũng chạnh niềm
Phạm
Thiên Thư
Đây là bài thơ vào loại dở nhất của anh Phạm Thiên Thư. Anh
Phạm Thiên Thư có nhiều bài thơ hay khác sao không chọn, lại đi chọn bài thơ
kém cỏi này? Ngay cả thiên tài thơ như Nguyễn Du, Nguyễn Trãi, Hồ Xuân Hương…
cũng vẫn còn có bài thơ dở, huống hồ Phạm Thiên Thư? Phạm Thiên Thư rất xứng
đáng được chọn vào 100 bài thơ hay thế kỷ XX nhưng không phải là bài thơ dở tệ
như bài này? Hay là “hàng nghìn quần chúng yêu thơ” và hai ông Lê Lựu, Hữu Thỉnh
không phân biệt được thơ dở và thơ hay? Hay là ban tuyển chọn ra đòn chính trị,
chơi khăm Phạm Thiên Thư để chơi xỏ các nhà thơ của Việt Nam Cộng hòa: rằng,
thơ các anh dở ẹc, các ông thử chọn ra vài mống để thiên hạ cười chơi?
Vì khuôn khổ bài báo không cho phép, chúng tôi không thể
chép ra đây hết 70 (bảy mươi) bài thơ dở khác theo trường phái “tấu thi” của cuốn
100 bài thơ hay nhất thế kỷ XX để quý bạn đọc cùng phán xét. Chúng tôi có một
yêu cầu, nếu TTVHDN và NXBGD (thấy ghi ở trang 4: “Bản quyền thuộc NXBGD) tái bản
tuyển tập thơ có một không hai này, xin nhớ thay đổi nhan đề cuốn sách thành:
30 bài thơ hay và 70 bài thơ dở nhất thế kỷ XX.
Sài Gòn 18-04-2007
Trần Mạnh Hảo
©
2007 talawas
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
POST HÌNH HOẶC VIDEO CLIP VÀO Ô COMMENT :
Các bạn chỉ việc copy link hình hoặc link video clip dán trực tiếp vào ô comment mà không cần dùng thẻ