Tên
thật là Vũ Thị Tuệ.
Sinh năm1944 tại Nam Ðịnh
Sinh năm1944 tại Nam Ðịnh
Viết
tiểu luận văn học từ 1985
Ðã
in bài trên các báo Tự Do (Pháp & Bỉ), Văn Học (Hoa Kỳ), Thông Luận (Pháp),
Thế Kỷ 21 (Hoa Kỳ), Người Việt (Hoa Kỳ), Diễn Ðàn (Pháp), Hợp Lưu (Hoa Kỳ), Phụ
Nữ Diễn Ðàn (Hoa Kỳ)...
Cộng
tác với đài RFI (Radio France Internationale) trong chương trình Văn Học Nghệ
Thuật (1990-2009)
Thụy Khuê
Nhà thơ Huy Cận đã từ trần ngày 19 tháng 2 năm 2005, tại
Hà Nội, thọ 86 tuổi.
Tác giả Lửa thiêng là một trong những nhà thơ mới cuối
cùng, đã ra đi, mang theo một thời đại, khép lại một cõi thơ: Thơ mới ra đời những
năm 30, chính xác hơn, ngày 10 tháng 3 năm 1932 với bài "Tình già" của
Phan Khôi, đăng trên Phụ nữ Tân văn số
122. Và cõi thơ ấy đã tồn tại đến ngày nay, với những thăng trầm, dày dạn; đôi
khi không ngại dùng quyền lực để tồn tại,
như trong thời kỳ Nhân Văn Giai Phẩm, các chủ soái Thơ mới đầy quyền uy như Tố
Hữu, Xuân Diệu... đã lạm dụng chức quyền để nghiền nát những nhà thơ trẻ muốn đổi
mới thơ ca như Trần Dần, Lê Đạt...
Huy Cận là bạn đồng hành của Xuân Diệu, ông cũng là một
trong những nhà thơ quan chức cuối cùng còn sót lại của một thời đại, mà đời
thơ trùng hợp với đời quan. Huy Cận đã dùng thi ca phục vụ chính trị một cách đắc
lực, và cuối cùng, cũng chính con đường quan lộ ấy đã tàn sát thi ca của ông.
Ngày nay, những gì mà Huy Cận để lại cho đời, đã và sẽ chỉ còn một ngọn Lửa thiêng
đã bùng lên từ thời 20 tuổi, thời mà ngòi bút ông chưa từng nhúng vào hệ lụy của
thế quyền.
Cù Huy Cận sinh ngày 31 tháng 5 năm 1919 tại xã Ân
Phú, huyện Hương Sơn, tỉnh Hà Tĩnh. Thuở nhỏ học trường làng, trung học ở Huế;
đến 1939 ra Hà Nội học trường Cao Đẳng canh nông, và 1943 tốt nghiệp kỹ sư canh
nông. Tham gia phong trào Việt minh từ năm 1942, và từ 1945 đến ngày nay liên tục
giữ các chức hàm Thứ trưởng, hoặc Bộ trưởng, đặc trách văn hoá văn nghệ.
Làm thơ từ năm 1934, được đăng trên báo từ năm 1936.
Ngay trong thời gian ở Huế đã cùng với Hoài Thanh viết những bài bình luận trên
các báo Tràng An, Sông Hương. Năm 1936, gặp Xuân Diệu ở trường Khải Định, và kết
bạn từ đó. Những năm 37, 38, 39, Huy Cận trao đổi thư từ với Chế Lan Viên, lúc
đó đã xuất bản Điêu tàn. Từ 1939, ông ra Hà Nội ở chung với Xuân Diệu trên căn
gác số 40 phố Hàng Than.
Tháng 11 năm 1940, tập Lửa thiêng được nhà Đời Nay của
Tự Lực Văn Đoàn xuất bản, Xuân Diệu đề tựa, Tô Ngọc Vân trình bày bià.
Năm 1942, xuất bản tập văn xuôi Kinh cầu tự, hoàn
thành tập thơ thứ hai Vũ trụ ca, chưa in thành sách. Và từ đó tiếp tục các tập
thơ khác, như Trời mỗi ngày lại sáng (1958), Đất nở hoa (1960), Bài thơ cuộc đời
(1963). Những năm sáu mươi (1968), Cô gái Mèo (1972), Chiến trường gần chiến
trường xa (1973), Những người mẹ những người vợ (1974), Ngày hằng sống ngày hằng
thơ (1975), Ngôi nhà giữa nắng (1978), v.v...
Ở Paris, 1983, một số người yêu thơ Huy Cận, đã giúp
ông xuất bản tuyển tập thơ viết tay tựa đề Đi giữa đường thơm, trên giấy quý, gồm
phần lớn những bài đã in trong Lửa thiêng và một số bài thơ tình đắc ý, làm sau
45.
Năm 1989, giữa cao trào đổi mới, Huy Cận cho in tập
Chim làm ra gió, (nhà xuất bản Tác Phẩm Mới) tại Hà Nội .
Qua những tuyển tập thơ Huy Cận được liên tục xuất bản
hoặc tái bản, chúng ta cũng có thể có cái nhìn khá toàn diện về sáng tác của
Huy Cận: Sau 45, hầu hết những tập thơ của ông đều chuyển tải khá rõ nét sứ mệnh
tuyên truyền, vì vậy ít bài có thể trụ. Ngay cả bài Các vị La Hán chùa Tây
Phương được nhiều người ca tụng, tuy không mang tính cách tuyên truyền, nhưng
cũng không còn phong độ bay bổng của thời Lửa thiêng, nhất là tập Chim làm ra
gió, Huy Cận tỏ ra hết sức cố gắng quay về với vũ trụ, với thiên nhiên, nhưng
thơ ông không còn thanh thoát, không còn bát ngát như ngày xưa nữa.
Vũ trụ bát ngát
trong Lửa thiêng là gì? Là một vũ trụ sầu, sầu vô cớ, không khói hoàng hôn cũng
nhớ nhà.
Thời ấy, người ta hay sầu lắm. Có người bảo: tất cả những
nỗi sầu ấy đều giống nhau, đều bắt nguồn từ cái spleen của một chàng Edgar Poe
nào đó. Đồng ý, nhưng mỗi nhà thơ tài hoa
của chúng ta đều tạo được một mối sầu riêng. Hồ Dzếnh có nét sầu của Hồ
Dzếnh, Huy Cận có nỗi sầu Huy Cận... và mỗi nỗi sầu riêng ấy là một vũ trụ thơ,
một vũ trụ đời.
Hai bài thơ hay vào loại nhất nhì trong tập Lửa
thiêng, Huy Cận viết tặng Khái Hưng. Chắc là thời ấy, Huy Cận mến mộ Khái Hưng
lắm. Còn một số những bài khác như Đi giữa đường thơm đề tặng Thạch Lam, Đẹp
xưa tặng Tô Ngọc Vân, Học sinh tặng Tú Mỡ, Hồn xa tặng Thế Lữ, Giấc ngủ chiều tặng
Hoàng Đạo, Nhạc sầu tặng Nguyễn Gia Trí,
Áo trắng tặng Nhất linh... Tập Lửa thiêng, như vậy, ngoài giá trị thi
ca, còn lưu lại một chút tình bạn, tình người. Cho nên hôm nay chúng tôi muốn
nhắc lại hai bài thơ vào loại hay nhất của Huy Cận: Bài Buồn đêm mưa tặng Khái Hưng, và bài Tràng giang tặng Trần
Khánh Giư.
BUỒN
ĐÊM MƯA
(Tặng
Khái Hưng)
Đêm
mưa làm nhớ không gian
Lòng
run thêm lạnh nỗi hàn bao la...
Tai
nương giọt nước mái nhà
Nghe
trời nằng nặng nghe ta buồn buồn
Nghe
đi rời rạc trong hồn
Những
chân xa vắng dặm mòn lẻ loi...
Rơi
rơi... dìu dịu rơi rơi...
Trăm
muôn giọt nhẹ nối lời vu vơ...
Tương
tư hướng lạc, phương mờ...
Trở
nghiêng gối mộng, hững hờ nằm nghe.
Gió
về, lòng rộng không che,
Hơi
may hiu hắt bốn bề tâm tư...
Buồn đêm mưa xác định nỗi sầu Huy Cận. Đó là nỗi buồn
vô cớ, xuyên suốt không gian, như một độ ẩm có sức thẩm thấu ngấm ngầm, theo nước
mưa thấm vào lòng người. Những yếu tố âm nhạc và thi ca ở đây kết hợp toàn bích
như một bản nhạc phổ thơ, như bài thơ phổ nhạc. Và tiếng buồn, khởi đi từ không
gian ẩm lạnh của đêm mưa, và tiếng mưa như những nốt nhạc gợi nhớ, một nỗi nhớ
vu vơ, nhớ ai? Nhớ không gian. Không gian nào? Không gian giá buốt, chứa một
"nỗi hàn bao la"... Càng nằm, càng nghe, càng lạnh, điệu nhạc mưa
càng tung hoành, làm khắc khoải lòng người, làm đờ đẫn tâm can, làm lang thang
chân bước, từ mưa đến mộng, từ tâm cảnh sang ngoại cảnh. Đó là một nỗi sầu vô cớ,
sầu lang thang, không nhà không cửa, sầu không quán trọ, sầu không phương hướng...
sầu dọc chiều dài thời gian và sầu mênh mông trong không gian vô tận. Chưa bao
giờ chúng ta nghe một bản nhạc sầu như thế, sầu hồn hoà trong ướt át gió mưa,
nhẹ nhàng sầu và êm ái đến thế.
Đến bài Tràng giang tặng Trần Khánh Giư, không gian sầu
mở tung trên trời nước. Phạm Duy bảo khi ông làm bài Cửu Long giang, ông đã
nghĩ đến Tràng giang của Huy Cận, và bất cứ ai trong chúng ta, một lúc nào đó,
ngược dòng Cửu Long, hoặc xuôi sóng Bạch Đằng, mà không trạnh thấy bâng khuâng trời rộng nhớ
sông dài
Niềm bâng khuâng dâng lên như sóng, từng đợt, từng đợt
trùng trùng, chiếm hữu tâm tư, sông loang thành biển, mối sầu tan rộng như đại
dương, bay lên thượng tầng thanh khí:
TRÀNG
GIANG
Sóng
gợn tràng giang buồn điệp điệp,
Con
thuyền xuôi mái nước song song.
Thuyền
về nước lại, sầu trăm ngả;
Củi
một cành khô lạc mấy giòng.
Lơ
thơ cồn nhỏ gió đìu hiu.
Đâu
tiếng làng xa vãn chợ chiều.
Nắng
xuống, trời lên sâu chót vót;
Sông
dài, trời rộng, bến cô liêu.
Bèo
dạt về đâu hàng nối hàng;
Mênh
mông không một chuyến đò ngang.
Không
cầu gợi chút niềm thân mật,
Lặng
lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng.
Lớp
lớp mây cao đùn núi bạc...
Chim
nghiêng cánh nhỏ: bóng chiều sa.
lòng
quê dợn dợn vời con nước,
Không
khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.
Niềm giao ứng giữa đất trời và lòng người, giữa cảm
súc và thiên nhiên, giữa vũ trụ và không gian mà Baudelaire gọi là
correspondance - giao cảm, ở đây xẩy ra trên toàn diện, trong không khí Đường
thi, và Thôi Hiệu cũng quanh quất đâu đây. Theo mối sầu thiêng, sâu chót vót,
Huy Cận giao cảm Đông Tây trời đất, giao cảm sông nước và hồn người bằng phong
thái thăng hoa tinh vi giữa nhạc và chữ.
Nếu các bạn vẫn còn ở trong cõi thơ Huy Cận, xin mời bạn
hát và lắng nghe mình hát bài Ngậm ngùi của Huy Cận do Phạm Duy phổ nhạc. Phạm
Duy - sành thơ hơn nhiều nhà thơ - khi
phổ nhạc, thường hay thay một lời, đổi vài câu, hoặc làm thêm một vài câu thơ
khác. Lời thơ mà Phạm Duy thêm vào, đôi khi hay hơn những câu trong chính bản của
nhà thơ. Ngậm ngùi là một trường hợp đặc biệt: không những Phạm Duy không thêm
thơ, mà ông cũng không thay đổi một chữ nào trong thơ Huy Cận. Ở đây nhạc đã
quyến vào thơ như đôi tâm hồn tri kỷ, và, phải nhận rằng, Ngậm ngùi sở dĩ đi
sâu vào lòng người Việt đến thế là nhờ sức quyến rũ mãnh liệt, nẩy ra từ sự
giao cảm tuyệt vời giữa thơ và nhạc, giữa Phạm Duy - Huy Cận.
Chúng ta tạm biệt nhau trong Ngậm ngùi
NGẬM
NGÙI
Nắng
chia nửa bãi; chiều rồi...
Vườn
hoang trinh nữ xếp đôi lá rầu.
Sợi
buồn con nhện giăng mau;
Em
ơi hãy ngủ... anh hầu quạt đây.
Lòng
anh mở với quạt này;
Trăm
con chim mộng về bay đầu giường.
Ngủ
đi em, mộng bình thường!
Ru
em sẵn tiếng thùy dương mấy bờ..
Cây
dài bóng xế ngẩn ngơ...
Hồn
em đã chín mấy mùa thương đau?
Tay
anh em hãy tựa đầu,
Cho
anh nghe nặng trái sầu rụng rơi...
Thụy Khuê, Paris 26/2/2005
Nguồn:
http://thuykhue.free.fr/stt/h/huycan.html?fbclid=IwAR13eP5CKVplqNsE3QlnHDJYHEFXGnBLCF18qE1gm4QznY9zhMlFXlAJ0V4
Nhà phê bình Thụy Khuê có vẻ không chính xác do thiên kiến chính trị đã hạ những dòng thiếu thuyết phục: "Huy Cận đã dùng thi ca phục vụ chính trị một cách đắc lực, và cuối cùng, cũng chính con đường quan lộ ấy đã tàn sát thi ca của ông".
Trả lờiXóaNgoài ra, chắc Thụy Khuê nói và viết tiếng Pháp quen, nên khi dùng tiếng Việt sai chính tả : Cảm xúc mà bà viết là CẢM SÚC!"Niềm giao ứng giữa đất trời và lòng người, giữa cảm súc và thiên nhiên, giữa vũ trụ và không gian mà Baudelaire gọi là correspondance - giao cảm, ở đây xẩy ra trên toàn diện". Đây có phải lỗi"cậu đánh máy"?