LỜI
RIÊNG…TRONG TẬP SÁCH
"ĐOÀN ĐỨC VÀ NHỮNG HOÀI NIỆM VỀ THẦY CÔ CŨ"
Thoạt đầu Lê Mậu Minh khởi xướng và yêu cầu tất cả
các bạn viết bài cho đặc san về khối lớp 1960-1967 của trường Trung học Nguyễn
Hoàng Quảng Trị và lấy tên là Hoa Bất Tử. Tôi lúng túng làm một bài thơ gởi cho
Mậu Minh đăng, thì vợ tôi chê dở. Hai tháng vẫn không viết được một chữ nào,
trong khi đó các bạn tôi đều viết xong để gởi đăng, tôi lo lắng vì đến hạn mà vẫn
chưa xong. Bạn Nguyễn Thắng ở Huế cá với Nguyễn Đình Hạnh ở Đông Hà 10 triệu đồng
rằng tôi viết không tới hai trang giấy A4. Đình Hạnh điện thoại nói với tôi: “Hồi
xưa bạn học ban C văn chương, sinh ngữ mà nay không viết được chữ nào để Thắng
cười à. Hãy giúp mình thắng cá độ đi”. Tôi liền ngồi viết một mạch về thầy Trần
Thương Bá, được 34 trang viết tay A4. Ban biên tập gồm Lê Mậu Minh, Nguyễn Văn
Quang… khi duyệt bài thì bảo rằng: “Không đăng được vì quá dài, mà cắt ngắn thì
không nỡ”. Hơn nữa, đã có anh Đỗ Tư Nhơn viết về thầy Bá nên Ban Biên tập đề
nghị tôi nên viết về thầy cô cấp II. Tôi tự ái trả lời: “Thế thì tôi sẽ viết
luôn một loạt bài về quý thầy cô, các bạn muốn đăng sao thì đăng”. Nói là làm,
tôi viết liên tục về bảy thầy cô. Sau khi đọc xong các bạn khuyên tôi không nên
đăng vào tập san chung nữa mà in riêng thành một tập dành tặng cho quý thầy cô,
các bạn cùng lớp và cho cả chính tôi. Trong quá trình viết, tôi nhận được rất
nhiều niềm vui trong đó có sự động viên của hiền nội tôi - Cao Thị Thanh Nhàn,
công đánh máy của con gái và con dâu tôi (dù tôi biết các cháu đôi lúc cũng thấy
phiền vì sự lẩm cẩm của ba chúng), cũng không quên ơn cô Thoa – một người bạn
vui tính – đã đánh máy cho tôi khi các con tôi bận. Tôi chắc sẽ không quên vẻ mặt
nhăn nhó của Đào Văn Nhẫn khi phải đọc và sửa lỗi các trang viết qua email,
tranh cãi về trích dịch tiếng Pháp từ nguyên tác dù đây là ký ức chứ không phải
tôi dịch hay sáng tác. Còn Nguyễn Đình Hạnh thì hứa mà chỉ sửa sơ lược phần thi
ca trong bài. Đỗ Tư Nghĩa thì lười. Nguyễn Văn Quang, Tống Văn Thụy thì tế nhị,
cả nể. Nguyễn Thắng thì bận rộn khám bệnh, Nguyễn Văn Hóa chịu khó đọc lại các
bản nguyên tác Hán - Nôm để sửa, không những về từ ngữ, dấu chấm phẩy mà còn lo
cả phần kiểm duyệt (Đúng là nguyên thầy giáo chuyên văn kiêm giám đốc nhà in!).
Riêng cảm ơn Nguyễn Trường Thi, học trò cũ của tôi, đã giúp đính chính những
thiếu sót, thêm vào một số nguồn có liên quan đến Anh ngữ và về thầy Gary
Carkin, trình bày vi tính, dàn trang và đề nghị khổ sách… trước khi gởi bản thảo
cho nhà xuất bản. Cũng không quên cảm ơn nhà tài trợ chuyến đi Đà Lạt - Nguyễn
Thắng, do thua cá cược 10 triệu đồng nên tháng 3/2017 đã cùng vợ vào Sài Gòn
đưa Đình Hạnh, Mậu Minh, vợ chồng tôi, Võ Cẩm, cô Thoa đi Đà Lạt thăm Đỗ Tư
Nghĩa để tiêu cho hết tiền thua độ. Tiếc là Mậu Minh không đi được.
Ôi qua bao nhiêu năm mà tôi vẫn còn được trở về “tuổi
thơ chí chóe cùng chúng bạn”. Thật diễm phúc biết bao!
Đoàn Đức
…
Và sau đây xin trích một số nội dung các email trao
đổi giữa tôi và các bạn về tập hồi ức.
1.
Đào Văn Nhẫn ở Sài Gòn
¤ Email ngày 07/02/2017
Đức thân,
Những bài viết này mà xuất hiện vào dịp 20/11 thì
quá ý nghĩa, nếu không trùng vào dịp này thì đăng vào Tập san hoặc đặc san kỷ
niệm lớp hoặc trường thì thật quá giá trị. Mình thật sự và hoàn toàn không biết
đến những vị Giáo sư mà Đ luôn hằng quý mến và biết ơn như thầy Bá, thầy Hội,
cô Nhã...Song, cũng như Đ và qua Đ mình rất ngưỡng mộ những đồng nghiệp của
mình và nhận thấy họ là những con người tài hoa trên bục giảng bởi lẽ kiến thức
của họ quá tuyệt vời và thâm sâu khi giảng bài ở cấp 2 mà mình có cảm tưởng như
đang giảng một lớp chuyên văn hoặc chuyên Anh Văn ở cấp 3 trường chuyên hoặc ở
Đại học. Phải thú nhận GV bây giờ - kể cả mình - cũng không đủ trình độ và nhiệt
tình như thế.
¤ Email ngày 25/03/2017
Đức mến,
Chỉ một câu khuyên: nên in thành một tập riêng với đề
tựa “Dấu ấn thầy cô” để hậu sinh thấy được tình cảm “tôn sư trọng đạo” và
“phương pháp dạy ưu việt” của các thầy cô trước 1975 mà nay không tìm ra được !
Học sinh là tấm gương phản chiếu hình ảnh của thầy
cô giáo, các bạn học sinh được nhắc đến trong các bài viết “hoài niệm thầy cô
và bạn bè cũ” nay phần lớn đều thành nhân vì đã được hấp thụ một nền giáo dục
khai phóng, một phương pháp truyền thụ kiến thức sinh động, gợi mở, lấy học
sinh làm trung tâm, không bị gò bó trong sách giáo khoa...
Xin thay mặt các thế hệ học sinh ngày nay cám ơn các
học sinh đàn anh đã cho... dự một số giờ lên lớp về cách dạy và học, hầu có cái
nhìn chính xác hơn về khả năng và kiến thức của thầy và trò trước đây...
Bản thân tôi, từng có 40 năm liên tục đứng trên bục
giảng, cũng xin bày tỏ lòng ngưỡng mộ đối với các thầy cô được nhắc đến trong
bài, những vị đồng nghiệp đầy kiến thức và kinh nghiệm của thế hệ trước mà đa số
tôi chưa có dịp quen biết...
¤ Email ngày 06/4/2017
- Cuối cùng, phải công nhận thời xưa, không những thầy
cô giỏi, nhiều kinh nghiệm, tận tâm mà còn nhờ học sinh có tư chất thông minh
và đặc biệt là ham học hỏi: “Pour digérer le savoir il faut l'avoir avalé avec
appétit” (Muốn tiêu hóa kiến thức, trước đó cần phải tiếp thu nó một cách hứng
thú) Anatole France
Đào Văn Nhẫn
Đào Văn Nhẫn
Cử
Nhân giáo khoa Pháp văn – Đại học Sư phạm Pháp văn 1966-1970
2.
Đỗ Tư Nhơn ở Quảng Trị
¤ Email ngày 04/02/2017
Anh đọc xong bài viết của Đức. Đọc lần nữa ba bài về
thầy Hội, cô Nhã, cô Thanh, xúc động. Trí nhớ tốt quá! …
Bài về thầy Bá có nhiều chi tiết quý hiếm giúp bạn
bè hiểu sâu về cuộc sống, tình cảm thơ ca của thầy Bá từ người học trò, người
tri âm, từng gắn bó nhiều giai đoạn đời với Thầy. Anh đồng ý với Đức lời giới
thiệu của Tạ Nghi Lễ trong tập thơ Tình Huế của thầy Bá có vẻ trịch thượng.
Anh Nhơn.
Đỗ
Tư Nhơn
Cựu
học sinh Nguyễn Hoàng 1957-1964
Cử
nhân Giáo khoa Việt văn. Đại học Sư phạm Văn 1964-1968
3.
Tống Văn Thụy ở Đà Nẵng
¤ Email ngày 16/02/2017
Anh Đoàn Đức thân mến.
Thụy đọc bài anh đến lần thứ ba.
Anh có trí nhớ tuyệt. Cảm xúc chân thành và xúc động.
Cám ơn anh đã gửi cho đọc trước.
Thụy có mối duyên với văn chương cũng là qua anh.
Cũng như anh mê thích sử địa qua Thụy, khi chúng ta cùng sống tại Trung tâm
sinh viên Xavier, Huế.
Thân chúc mùa xuân bình an.
Tống
Văn Thụy
Cử
nhân Giáo khoa Sử. Đại học Sư phạm Sử Địa 1969-1973
4.
Đỗ Tư Nghĩa ở Đà Lạt
¤ Email ngày 10/02/2017
Đức trí nhớ tốt, những gì Đức nhắc lại mình mới nhớ
dù những chi tiết đó liên quan đến mình. Mình cũng có viết về thầy Hội, cô Nhã,
cô Thanh… bạn Nguyễn Thắng và Đức nhưng không chi tiết được vì nhớ nhớ quên quên.
Thân. ĐTN
¤ Email ngày 05/7/2017
Đức ơi,
Nhớ xưa, cô
Nhã gọi Đoàn Đức, Nguyễn Thắng và Đỗ Tư Nghĩa là “tam anh Vườn Đào xứ Quảng.” Thuở
ấy, chúng mình chưa có lần nào “uống máu
ăn thề” theo kiểu người xưa, đúng không? Chỉ nhớ, thời trung học, chúng
mình luôn ngồi bàn đầu – mình ngồi giữa Đức và Nguyễn Thẳng. Hiếm khi rời nhau.
Chỉ biết, vắng nhau thì nhớ.
Nhà Đức ở
làng Thạch Hãn, um tùm cây lá vây quanh. Mình vẫn thường đến đó. Có anh Đoàn
Liên, Đoàn Minh... Lúc ấy, hình như còn song thân của Đức. Có cô cháu gái Đoàn
Thị Hoa, vẫn còn bé xíu. Ngày đó, Đức và mình đều thích nhạc của Trúc Phương. Đức
thích Mưa nửa đêm, Chiều cuối tuần...
Còn mình thì thích Con đường mang tên em,
Ai cho tôi tình yêu...
Nhà Nguyễn
Thắng ở tận phía cầu ga, gần bệnh viện Quảng Trị. Thắng có hai cậu em trai, là
Nguyễn Thái, Nguyễn Lang, và một người anh, mình đã quên tên. Một chị gái tật
nguyền, nhưng có khuôn mặt xinh đẹp, hồng nhan bạc mệnh. Nhớ ca khúc Một bàn tay của Phạm Duy, mà Thắng vẫn
thường ôm đàn và hát. “Bàn tay đưa anh ra khỏi lòng người/ Một
đêm kêu lên hơi thở tuyệt vời/ Bàn tay êm ái, ôi bàn tay khoan khoái/ Nhạc ru
tiếng khóc trần ai...”
Đức ơi,
không rõ tại sao hồi đó chúng mình thân thiết với nhau như vậy? Mình gặp Thắng
từ lớp ba, trường Nam tiểu học. Đức, mới gặp từ năm đệ Thất. Có phải đó là “duyên tiền kiếp” không nhỉ?
Suốt bao
nhiêu năm bên nhau, chúng mình đã nói với nhau những gì, đã cùng đi với nhau
trên những con đường nào, mình đã không còn nhớ. Chỉ còn đọng lại một nỗi thân
thương, một cảm giác êm đềm, ấm áp.
Có lần, mình
đã viết “nếu Huế là thành phố của một thời
lãng mạn, B’lao là nơi tôi chập chững bước vào đời, thì Quảng Trị là nơi tôi đã
sống một tuổi thơ êm ái.”Cái tuổi thơ êm ái đó, gắn liền với cái tên
Nguyễn Hoàng và Quảng Trị.
Những bài
viết của Đức nói về trường Nguyễn Hoàng, về các cô Nguyễn Thị Nhã, Nguyễn Thị
Thanh; các thầy Trần Thương Bá, Trương Ngọc Hội, Lê Mậu Tâm, Hồ Sĩ Châm, và
Gary Carkin.
Trong số đó,
thì thầy Gary Carkin, mình không rõ – vì năm Đệ Nhất C mình không còn là học
sinh của trường nữa. Mình chỉ học dự
thính duy nhất môn Triết của thầy Lê Mậu Tâm. Mình cũng không có “duyên” với
thầy Hồ Sĩ Châm, nên mình không có nhiều kỷ niệm với Thầy như Đức.
Trừ hai thầy
đó ra, thì số còn lại, mình nhớ khá rõ: Cô Nhã, thầy Bá, cô Thanh, thầy Tâm, thầy
Hội.
Cô Nhã, thầy
Bá, và thầy Tâm, bây giờ đã thành người thiên cổ. Theo cảm nhận của mình, thì
cô Nhã và thầy Bá, là hai người đã dành cho mình nhiều ưu ái nhất.
Khoảng năm
1999, mình đã liên lạc được với thầy Bá. Đã tâm sự một đôi lần với Thầy qua thư
tín. Một đôi lần nghe giọng nói ấm áp của Thầy trên phone. Không ngờ Thầy ra đi sớm thế. Mình đã có bài viết về Thầy
đăng trên Nguyễn Hoàng-Chân dung & Kỷ
niệm, do Võ Thị Quỳnh chủ biên – nên ở đây mình không nhắc lại. Mình chỉ
nói gọn: Thầy là một trong những hình ảnh
đẹp nhất trong số các thầy cô của mình thuở đó.
(Nhờ bài
viết của Đức, mà mình biết thêm về quãng đời của Thầy ở quân trường, và những
“hệ lụy trần gian” của Thầy sau 75. Chi tiết về “cái áo gối” của chị Ngọc Lan,
rất “hấp dẫn,” mình cũng chưa hề biết).
Còn cô Nhã,
thì thỉnh thoảng mình vẫn gặp Cô – mỗi lần Cô vào Dalat thăm cô con gái. Những
lần đó, mình thường sang thăm Cô, và dùng bữa trưa với Cô. Gần đây – chỉ vài
tháng trước khi Cô ra đi – Cô đã gửi quà cho mình. Khi Cô nằm viện, mình đã kịp
gửi cho Cô xem bài viết ngắn của mình về Cô. May mắn thay, hình như Cô đã đọc.
Vài ngày sau đó thì Cô qua đời.
( Chi tiết “tam anh Vườn Đào xứ Quảng”, nhờ Đức và Thắng nhắc lại,
mình mới nhớ).
Khi anh Võ
Văn Cẩm gọi điện báo tin Cô ra đi, thì mình đang ở Saigon chữa bệnh. Mình bàng
hoàng, nhưng im lặng, không có biểu hiện gì. Sau đó, khi Nguyễn Thắng lại báo
tin, thì mình đã bật khóc. Mình không hiểu, do đâu mà cô dành tình cảm ưu ái
cho “tam anh Vườn đào xứ Quảng.”
Thầy Lê Mậu
Tâm là người giản dị, cởi mở, chân thật và độ lượng, với nụ cười hiền hòa. Bài
giảng của Thầy rất dễ hiểu, có hệ thống. Mình có kỷ niệm rất đáng nhớ với Thầy.
Năm Đệ Nhất C, mình chỉ học (dự thính)
duy nhất các giờ Triết của Thầy. Mình nghỉ học ở trường, là vì nhiều lý do
sâu xa, chứ không phải chỉ vì “buồn tình” đâu Đức ạ. Năm Đệ Nhất C đó, là năm rất
cô đơn của đời mình – vì mình đã tự quyết định nghỉ học, tuy rất nhớ trường, nhớ
lớp.
Sau này, khi
còn là sinh viên Triết ở Đại học Văn khoa Huế, mình đã có dịp làm “giáo sư,” mặc
áo veston chỉnh tề lên lớp thay cho Thầy vài tháng – ở một lớp Đệ Nhất C nào
đó. Khoảng thời gian đó, hình như sức khỏe Thầy không được tốt.
Đọc bài
viết của Đức, mình biết thêm quãng đời của Thầy sau
năm 1972, và quãng đời gian truân ở Đạ Tẻ
trước khi Thầy rời cõi tạm: trải qua một
cuộc bể dâu/ Những điều trông thấy mà đớn lòng!
Nhân đây,
chúng mình hãy thắp một nén tâm hương, để tưởng nhớ hương linh của cô Nguyễn Thị
Nhã, thầy Trần Thương Bá, và thầy Lê Mậu Tâm, nhé Đức. Cầu mong cô Nhã và hai
Thầy đang ở trong một cảnh giới bình an nào đó.
Còn thầy Hội, thì mình không rõ hiện nay Thầy đang ở đâu... Thầy có còn
trên đất nước Việt Nam? Thầy có còn ở trần gian này, hay đã đi về một cảnh giới
nào khác? Đã quá lâu, mình không có tin tức nào về Thầy. Thầy là một khuôn mặt
hết sức “độc đáo.” Nhờ cuốn sách của Đức, mà mình mới nhớ lại chuyện “bắn hoa hồng muộn,” một kỷ niệm rất thú
vị. Và nhiều chi tiết
khác, xung quanh con người và phong cách giảng dạy của Thầy.
Trong số 7
thầy cô mà Đức nói đến, thì chỉ còn cô Thanh và thầy Châm là vẫn còn lưu lại
cõi tạm này.
Thuở ấy,
mình không học với thầy Châm ở lớp Đệ Nhất C, nên đã bỏ mất rất nhiều kỷ niệm
mà Đức đã có. Không ai giảng cho mình những điều thâm thúy trong các bài thơ,
bài văn trong sách giáo khoa La Vie en
Amérique. Những cái đó, mình đều phải tự học.
Mới đây, nhờ
đọc bản thảo Hoài niệm thầy cô giáo của Đức, và bài viết của Thầy Châm
về cuốn sách đó, mình mới biết Thầy là một người có kiến thức uyên thâm, một
tâm hồn sâu lắng. Mình đã viết về một số thầy cô, nhưng không có bài nào viết về
Thầy. Bởi vì, cái năm Đệ Nhất C ấy, mình đã không được học với Thầy, do vậy,
không rõ lắm về Thầy. Hôm rồi, nói chuyện với Thầy một lát qua điện thoại, mình
rất cảm động, không ngờ rằng Thầy đã âm thầm dành cho mình một tình cảm ưu ái.
Xin gửi đến Thầy lời cảm tạ. Hình như Thầy đã ở khoảng tuổi 80. Rất mong có
ngày được hàn huyên với Thầy.
Riêng cô
Thanh, thì mình khó mà quên Cô được – bởi vì thuở đó, Cô trẻ đẹp, dịu hiền và
nói tiếng Pháp rất hay. Ngày ấy, mình vẫn thường thấy Cô đi qua con đường làng
Thạch Hãn, những sáng Chúa nhật, Cô đi lễ nhà thờ.
Về câu chuyện “vớ vẩn” xung quanh “je t’aime,” – mà Quang
và Đức hay nhắc lại – thì thú thật, mình không còn nhớ gì. Nhưng quả thật, đó
là một kỷ niệm rất thú vị của thời áo trắng. Mới đây, khi dịch Life of Tolstoy [Đời Tolstoy] của Romain
Rolland – qua bản Anh ngữ của Bernard Miall –
mình có đối chiếu với nguyên tác Vie de
Tolstoi, tiếng Pháp. Với khả năng tiếng Pháp sinh ngữ 2, mà cơ bản vẫn hiểu
được nguyên tác – thì một phần lớn cũng nhờ cô Thanh trẻ đẹp dịu hiền của chúng
ta ngày ấy!
Lần mình về
Saigon chữa bệnh, chưa tiện đến thăm Cô, nhưng Cô đã nhiều lần gọi điện thăm
mình. Qua giọng nói của Cô, mình cảm nhận một tình cảm thân thương khó lòng diễn
tả. Xin cảm tạ tấm lòng trìu mến của cô.
Bây giờ tuy
đã ở tuổi “xưa nay hiếm” rồi, nhưng mỗi
lần hồi tưởng lại, vẫn thấy như thể mình được hóa thân trở lại thành cậu bé của
những ngày thơ ấu đó.
Có một cô từng
là nữ sinh trường Nguyễn Hoàng, tên là Nguyễn Thị Thu, được biết đến như là “ca
sỹ Thu Vàng.” Mới đây, mình đã nghe cô hát Những
ngày thơ mộng của Hoàng Thi Thơ. “Tìm đâu những ngày thơ ấu qua?/Tìm đâu những
ngày xinh như mộng?/ Tìm đâu những ngày thơ?/ Tìm đâu những chiều mơ?/ Tìm đâu,
biết tìm đâu, đâu giờ?”
Bài hát ấy,
mỗi lần nghe lại, đều khiến tâm hồn mình xúc động.
Những ngày thơ mộng ấy, đã qua đi theo thời gian, nhưng dư âm dường như vẫn ngân vang hoài
trong ký ức.
Ngày ấy, có
Nguyễn Hoàng, có Quảng Trị. Có dòng sông Thạch Hãn, có những con đường Quang
Trung, Trần Cao Vân, Trần Hưng Đạo, Gia Long...
Có những người thân, có thầy cô và bạn hữu. Có những “sợi tơ tình” giăng mắc, mỏng như tơ, mơ
hồ như mây như khói, nhưng cũng đẹp lung linh như những hạt sương mai.
Mình vẫn thầm
tri ân tất cả những gì đã góp phần làm nên cái tuổi thơ êm ái đó của mình.
Thời gian là
một dòng sông không trở lại. “There is a
river called the River of No Return”– như ca từ một khúc hát mà thầy Lê Văn
Sét đã có lần hát cho chúng mình nghe. Mặc dầu vậy, cơ hồ như dòng sông ấy vẫn
thường trở lại trong hồi ức, trong những bài viết như Hoài niệm thầy cô giáo của Đức, có phải thế không?
Thân
mến,
Đỗ
Tư Nghĩa
Cựu
học sinh Nguyễn Hoàng 1960-1967
Cử
nhân Giáo khoa Triết học 1967-1971
5. Nguyễn Đình Hạnh ở Quảng Trị
¤ Email ngày 09/06/2017
Đức ơi,
Rất vui và mừng khi nhận được mail của Đức với bao tin yêu trìu mến, đồng thời lại cảm thấy rất “hãnh diện” khi được Đức ngỏ ý nhờ đọc và góp ý về tập tùy bút “NGUYỄN HOÀNG HOÀI NIỆM THẦY CÔ CŨ” của Đức.
Phải nói ngay là rất bất ngờ và hạnh phúc.
Bất ngờ vì té ra cái anh chàng “savant chải chuốt lịch duyệt điệu đàng thông thái sắc sảo khôn ngoan” trong ký ức tuổi thơ của mình bây giờ không những có khả năng tuyệt vời của một nhà quản lý, một doanh nghiệp tài ba kiệt xuất mà còn là một nghệ sỹ với tâm hồn thơ mộng đa cảm âm trầm da diết ân tình, một trí tuệ thông thái với một ký ức phong nhiêu sắc sảo tráng lệ huy hoàng như vậy... Bái phục, bái phục những hồi ức khúc chiết mạch lạc rạch ròi vi tế... Tất cả như mới vừa hôm qua đã đưa chúng ta cùng biết bao bằng hữu phiêu du về những ngày tháng tuổi thơ mơ mộng tinh anh diễm lệ, gian khó nhưng ý vị nồng ấm ngọt ngào cùng quý thầy, quý cô, và bạn bè trang lứa…
Và hạnh phúc khôn xiết khi tưởng rằng trầm tích gió cát cuộc đời đã vùi lấp bao nhiêu gắn bó ân tình thì dưới bàn tay tài hoa của Đức tất cả đã hồi sinh, lại còn được khoác lên mình cái vẻ ảo diệu của sương bóng thời gian nên càng lung linh diễm tuyệt… và càng làm ta say đắm đê mê hạnh phúc trong cái giao khúc Hoài niệm Nguyễn Hoàng…
Như vậy là mình đã cám ơn Đức rồi đó nghe. Nhưng mình cũng phải nhắc Đức cám ơn Minh, cám ơn Nhàn, cám ơn Hóa và cám ơn mình cùng Thắng nữa... Vì nếu không có Minh khởi xướng ý tưởng, hành động… thì con chim oanh vàng ấy đang ngủ yên… Nếu không có Nhàn chăm chút , khích tướng thì cũng chỉ dừng lại ở những dòng thơ lạc vận và nếu thiếu sự động viên cổ vũ ràng buộc thách đố của mình cùng Thắng thì chưa biết dừng lại ở phương nào… và đặc biệt không có nhiệt tình, chu đáo, kỹ năng tài hoa của Hóa thì tất cả có thể cũng chỉ là những trang bản thảo lưu tán…
Nhưng có lẽ Người chúng ta cần phải cảm tạ muôn vàn là NGUYỄN HOÀNG.
NGUYỄN HOÀNG, tên gọi của một niềm hồng phúc ân sủng vô lượng, của một vị anh hùng chấp nhận đắng cay oan nghiệt, theo tiếng gọi của lương năng được Hoàng thiên mượn lời Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm dẫn dắt lên đường đi mở cõi và Ngài đã mở ra một phương trời mới mênh mông ngút ngàn trân châu gấm vóc ngọc ngà... Thuận Quảng... Đồ Bàn... Thủy Chân Lạp. Không có Ngài, vị nhạc trưởng tài năng, khởi tấu khúc dạo đầu “HOÀNH SƠN NHẤT ĐÁI... “ thì bản trường ca Nam Tiến có lẽ chỉ dừng lại phía nam Lũy Thầy và Lũy Trường Dực... Và Ái Tử, Trà Liên, Triệu phong mãi mãi là những bản làng vô danh xa khuất đìu hiu. Và như một niềm tri ân, nơi tụ hội của nhiều tài năng kiệt xuất của con dân nước Nam một thời với hoài vọng kiến tạo trí huệ tương lai cho những mầm non của đất tổ được đặt tên là Trường Trung Học Nguyễn Hoàng.
Men ấm nồng nàn của mẹ Nguyễn Hoàng đang ấp ủ bao giấc mơ đời huy hoàng diễm lệ, thì …1972, …1974, rồi 1975 …dâu bể tang thương đổ vỡ hoang tàn nhức nhối đớn đau. Một xung động khốc liệt đã xóa sạch tin yêu hy vọng hoài bão xây dựng kiến tạo bồi đắp của bao thế hệ tuổi thơ… Sang trang là hoang tàn tan nát phân ly... Đi qua Quảng Trị Nguyễn Hoàng những ngày tháng ấy là đi qua tha ma của lòng mình… Đau xót nhức nhối… Và có lẽ “Rien ne nous rend si grands qu’une grande douleur” (Alfred De Musset). Nỗi đau tan nát ấy đã dắt dìu những tâm hồn đau khổ của những cánh chim tan đàn vỡ tổ tha thiết tìm nhau gom tụ ấp ôm chút ân hương còn lại… NH Quảng Trị, NH Đông Hà, NH Huế, NH Đà Nẳng, NH BRVT, NH Đà Lạt, NH Sài Gòn, NH Cali,... Tiếng chim thao thiết tìm nhau… Và trong bản giao hưởng nồng đượm ân tình ấy NGUYỄN HOÀNG HOÀI NIỆM THẦY CÔ CŨ là một trong những hòa âm ngọt ngào ý vị du dương réo rắt êm đềm tha thiết nhất Đức ơi… Và mạch suối đã được khơi nguồn, hãy chảy đi… Đức nghe…
Mong lắm thay được nghe tiếp bản giao hưởng kỳ vỹ bất tận ấy…
Nguyễn Đình Hạnh
Cựu học sinh Nguyễn Hoàng 1964-1967
Cử nhân giáo khoa Việt văn 1967-1970
6.
Lê Mậu Minh ở Sài Gòn
¤ Email ngày 04/4/2017
Đức mến,
Qua một số hình ảnh thầy cô mà Đức đã đề cập làm cho
mình sống lại những ngày đáng sống của cuộc đời học trò dưới mái trường trung học
Nguyễn Hoàng thân yêu:
“Khúc
bồng lai: chuỗi ngày thơ hoang dại!”
Tình Bằng Hữu - Đạo Thầy Trò - Hồn Quê Hương một lần
nữa lại bừng lên và tiếp tục sống mãi trong tâm thức mình
“Trường
xưa muôn đời dâng hương
Ơn
thầy rì rào vương vương ngàn thu”
Cảm ơn Đức - người bạn quý mến đã cùng nhau 7 năm
đèn sách ở trung học và 4 năm tại Đại học Huế và ở tại Cư xá Trung tâm Sinh
viên Xavier Huế.
Lê
Mậu Minh
Cựu
học sinh Nguyễn Hoàng 1960-1967
Cử
nhân Giáo khoa Triết – ĐH Sư Phạm Văn 1967-1971
7.
Nguyễn Thắng ở thành phố Huế
¤ Email ngày 01/4/2017
Cái
thuở ban đầu...
Trong tâm tưởng, tôi không nhớ đến Đoàn Đức nhiều như một doanh nhân
thành đạt cùng người vợ đôn hậu và những đứa con tài năng tiếp nối cơ đồ của bố.
Tôi nhớ đến Đoàn Đức nhiều hơn vào cái thuở “đuổi bướm hái hoa ngoài đồng nội”.
Ở cái tuổi mà tôi thích hát bài Một bàn tay, Nương chiều của Phạm Duy thì Đức
mê mẩn với Mưa nửa đêm, Chiều cuối tuần của Trúc Phương. Ở cái thuở mà bây giờ
mới nói thật, chuyện bây giờ mới kể của ba chúng tôi, ba thằng bạn định mệnh -
tôi gọi thế vì ba đứa đeo đẳng nhau từ ngày còn ở tiểu học cho đến mãi tận bây
giờ - tròm trèm cũng 60 năm rồi đó. Ba đứa Thắng - Đức - Nghĩa mà như cô Nguyễn
Thị Nhã chủ nhiệm lớp Tứ 2 (lớp 9) đã đặt tên là “Tam anh Vườn Đào xứ Quảng” lớn
lên và ba con đường đi cũng khác nhau. Một, đi theo Freud, Angel, sống với những
suy tưởng lạ đời. Một, đi theo thực tế, cải thiện xã hội, giáo dục con người, để
cuối đời là một doanh nhân thành đạt. Và Một, còn lại thì vui sống với công việc
chăm sóc sức khỏe cho mọi người. Đó, ba đứa, ba định mệnh, ba cuộc đời - cùng
có những tháng ngày khốn khó như nhau, nhưng cùng hưởng những tháng ngày hoàn
toàn hạnh phúc. Những ngày đó Đức nhỉ, còn nhớ không? Ba đứa cùng thương nhớ về
một cô-bé-búp-bê, tuy rằng cái thương cái nhớ của tuổi học trò đó ở những mức độ
khác nhau: Đoàn Đức gần gũi nhất, lẽ tất nhiên là được nhiều nhất từ cô bé. Đỗ
Tư Nghĩa, còn có tên khác là Đỗ Nghiêu Hoàng, yêu tột cùng, mơ mộng, lãng mạn với
thơ văn không kể xiết. Còn Nguyễn Thắng, người thứ ba, thì có một tình cảm đặc
biệt nhưng chỉ đứng nhìn từ xa. Cũng hay một điều là cô-bé-búp-bê đó cũng cảm
nhận được nỗi lòng của người thứ ba, chẳng vậy mà ngày cô bé ở Mỹ về Việt Nam
cũng đã cố gắng tìm cho được số điện thoại của mình để tâm sự đôi điều. Tất
nhiên cú điện thoại đó thật bất ngờ và vô cùng cảm động. Đó, chuyện bây giờ mới
kể. Tuổi thơ lãng mạn, ấm áp. Cái lãng mạn ấm áp đủ cho một đời người.
Lại
nữa, lại nhắc về một người con gái khác, mà ba đứa cùng gọi là “chị”. Nhưng “chị”
thế nào, “em” thế nào cũng hoàn toàn không giống nhau, mà cho đến bây giờ, đã ở
vào cái tuổi xưa nay hiếm có rồi mà bí mật đó vẫn còn giữ kín, chỉ có thượng đế
mới biết được.
Tản
mạn ít hàng về tuổi thơ, thế giới thần tiên, thiên đường lộng lẫy của tuổi học
trò. Gửi đến Đức với vô vàn thương quý.
Nguyễn
Thắng
Cựu
học sinh Nguyễn Hoàng 1960 -1967
Cựu
Bác sĩ bệnh viện Trung ương Huế.
******
******
Sau
khi xuất bản, các đồng môn, huynh đệ, bạn bè, học trò cũ, thân nhân
của quý Thầy Cô đã mất và quý Thầy Cô còn sống, đã gửi thư phát
biểu cảm tưởng.
8.
Anh Hồ Trị ở Bà Rịa – Vũng Tàu
Email
ngày 02/8/2017
Tôi đã đọc nhiều lần tập “Hoài niệm Thầy Cô giáo”. Bài viết nào cũng hay và mạch lạc theo một
trình tự hợp lý, đã cuốn hút người đọc đến với những giờ học, nghe những lời thầy
cô giảng và những luận bàn, phản biện xác đáng thể hiện những trí tuệ không tầm thường với một nhân sinh
quan trong sáng .
Trong vị thế là người học trò cũ thân thiết với thầy
cô như người bạn và là đồng nghiệp sau
này, Đức đã cùng với họ chia sẻ buồn vui thế sự, nên tái hiện linh động những
giờ dạy và học cùng sự hoạt động của một nền giáo dục dân tộc, nhân bản dù đã
50 năm mà vẫn tiên tiến không lạc hậu chút nào. Tôi đọc kỹ các bài viết để biết
thêm ban C (ban Văn chương – Sinh ngữ) hồi
ấy học như thế nào, đọc lại mấy phần dịch thuật văn chương Pháp, Anh, Mỹ để so
sánh với cách dịch ngày nay và tôi cũng thu được ít nhiều lợi lạc. Tôi nhớ lại thời vàng son của trường Nguyễn Hoàng với các
học sinh xuất sắc từ khối lớp chúng tôi và các khối lớp tiếp nối cho đến ngày
ngôi trường không còn nữa.
Nhờ tập sách này tôi mới biết các vị Thầy mà tôi
không được học. Họ thật đáng ngưỡng mộ.
Ít ai có thể ngồi viết lại quá khứ một cách sinh động và có ý nghĩa như thế nếu không nhờ vào tài năng và
trí nhớ tuyệt vời, cùng với tâm huyết và tình cảm sâu đậm đối với quý thầy cô
cũ.
Rất cám ơn Đức đã ra tập sách để những ai đọc đều nhớ
đến trường Nguyễn Hoàng ngày xưa.
Xin chúc an vui và khỏe mạnh.
Thân mến
Hồ
Trị
Cựu
học sinh Nguyễn Hoàng 1955 – 1961
Cựu
Tổng giám thị trung học Triệu Phong – Quảng Trị
9.
Trần Phong Dũng ở TP Hồ Chí Minh
Email
ngày 30/9/2017
Chào Anh Đức,
Anh biết không lần đầu tiên sau hơn 15 năm Dũng đọc
một cuốn sách từ đầu đến cuối một lèo đó. Anh viết quá tuyệt! Nếu những bài viết
này in trong "Hương Quê Nhà" để nhiều cựu học sinh Nguyễn Hoàng có những
phút tĩnh lặng nhớ về Thầy Cô và thời học sinh của mình thì hay biết mấy!
Bài cảm tưởng của Thầy Châm thật tuyệt vời. Tuyệt vời
như "Hoài niệm Thầy Cô giáo" anh đã viết.
Dũng cảm ơn anh đã gởi cho Dũng đọc.
Chúc anh chị và cả nhà vui khỏe.
Trần
Phong Dũng
Cựu
học sinh Nguyễn Hoàng 1964-1971
Cử
nhân Đại học Khoa học Saigon 1971-1974
10.
Ngô Thị Hương Thủy ở Bảo Lộc – Lâm Đồng
Email
ngày 16/10/2017
Trong cuộc đời
học sinh, thật sung sướng khi gặp được
những người thầy tài hoa. Hạnh
phúc hơn, khi được thầy xếp mình vào loại tri âm tri kỷ. Anh Đoàn Đức là người có vinh dự ấy.
Nguyễn Hoàng, ngôi trường trung học của vùng địa đầu
giới tuyến Quảng Trị đã hân hạnh đón nhận bao nhiêu thầy cô giáo ưu
tú và cũng là cái nôi của các thế hệ học sinh nghèo vượt khó thành đạt vẻ vang.
Qua cuốn “Hoài
niệm Thầy Cô giáo”, chân dung của những thầy cô được tái hiện một cách sinh
động và chân thực. Họ không những là người có trí tuệ, tận tâm
trong nghề dạy học mà còn là
những nghệ sĩ, nhân hậu trong cuộc sống
đời thường. Đó là dấu ấn của một nền
giáo dục với triết lý "Dân tộc - Nhân bản - Khai phóng".
Có phải chính vì thế mà người học trò Đoàn Đức không
quên được dù mái tóc đã điểm sương và trong số thầy cô có những vị đã trở
thành người-muôn-năm-cũ…
Ngô
Thị Hương Thủy
Cựu
giáo viên trường PTTH Bảo Lộc, Lâm Đồng
11.
Nguyễn Lương Tuấn ở Đà Nẳng
Email
ngày 29/11/2017
“Hoài
niệm Thầy Cô giáo” của bạn tôi, anh Đoàn Đức, làm tôi xúc
động. Lối kể chuyện, nhắc lại các giờ học với các thầy cô một thời tại trường
Nguyễn Hoàng Quảng Trị như giờ Pháp văn với cô Nguyễn Thị Thanh, giờ Triết học
với thầy Lê Mậu Tâm, ... khiến tôi cứ nghĩ mình đang ngồi trong lớp cùng bạn,
thích thú nghe thầy, cô giảng bài. Nhất là khi bạn nhắc kỷ niệm với cô dạy Pháp
văn, bạn Đỗ Tư Nghĩa hỏi về động từ "aimer"
với ví dụ khi nào thì “Je t’ aime” và
khi nào thì “Je vous aime”. Thật thú
vị !
Phải có tình cảm sâu nặng, phải có sự kính trọng, biết
ơn các thầy cô, thì những kỷ niệm của thuở học trò mới được khắc sâu
vào trí nhớ tuyệt vời của bạn như thế.
Tôi nghĩ rằng cuốn “Hoài niệm Thầy Cô giáo” nếu đến tận tay các thầy cô giáo một thời
đã từng dạy bạn Đoàn Đức tại trường trung học Nguyễn Hoàng Quảng Trị sẽ là một
món quà rất có ý nghĩa. Nó vừa nói lên lòng nhớ ơn của tác giả vừa khẳng định
giá trị tinh thần của mối quan hệ thầy trò.
Mỗi người trong chúng ta ai chẳng có những kỷ niệm về
thời đi học của mình và mỗi lần hoài niệm về nó chúng ta vẫn cảm thấy nó như mới
đây, hôm qua, cùng bạn bè, cùng thầy cô với
lớp học thân thương, những tháng ngày hồn nhiên của mình.
Bên ngoài trời đang lạnh. Mùa đông rồi ! Cầm trong
tay cuốn “Hoài niệm Thầy Cô giáo”, tự nhiên tôi có cảm giác đây là cuốn “Le Livre de Mon Ami” của nhà văn
Anatole France. Trời lạnh, ngồi bên lò sưởi, nghe tiếng củi cháy kêu lách tách.
Nhà văn nghe như tiếng thì thầm của kỷ niệm: “Domez chéri ! Dormez chéri” .
“Hoài
niệm Thầy Cô giáo” làm cho tâm hồn tôi trở nên ấm áp, trẻ
trung. Tôi cảm thấy mình hy vọng hơn, yêu đời hơn.
Nguyễn
Lương Tuấn
Cử
nhân Giáo khoa Triết, Đại học Huế 1968-1971
Cựu
Giáo sư giảng dạy Triết học tại TH Hòa Vang, Bồ Đề, Bán Công - Đà
Nẳng
Cựu
Trưởng ban Thư ký biên tập NXB Giáo Dục tại Đà Nẳng
12.
Trần Quang Chu ở TP. Hồ Chí Minh
Email
ngày 30/11/2017
Bây giờ là vừa đúng 50 năm chúng tôi gặp nhau
ở trường Đại học Văn khoa Huế. Đức học ban Văn chương, tôi học ban
Triết. Chính máu mê văn chương đã xui khiến chúng tôi trở thành đôi
bạn thân, cùng tham gia sưu tầm, đánh máy thơ Hàn Mặc Tử.
50 năm sau, tức bây giờ, duy nhất Đoàn Đức vẫn
còn lưu giữ những bản đánh máy mỏng manh năm xưa, món đồ cổ quý giá
dành cho văn học. Khi tôi nghiên cứu về Hàn Mặc Tử, Đức trao cho tôi
những tài liệu đó với câu nói dí dỏm: “Kiếm báu phải trao về tay hiệp sĩ”.
Tôi tưởng Đức đã “rửa tay gác kiếm”, nhưng bất ngờ sau ngần ấy năm, Đức
tặng tôi cuốn “Hoài niệm Thầy Cô giáo”.
Tôi cầm sách thầm nghĩ máu mê văn chương trong Đoàn Đức vẫn còn chảy.
Khi Đức học Nguyễn Hoàng thì tôi học Quốc
Học (Huế), nên không cùng thầy cô với Đức. Những gì Đức hoài niệm
về thầy cô giáo của mình tôi chẳng hiểu mô tê gì cả. Có chăng chỉ
nghe danh tiếng của trường Nguyễn Hoàng với thầy hiệu trưởng Thái
Mộng Hùng mà thôi. Nhưng xuyên suốt tập hồi ký, tôi bất ngờ biết ở
tuổi “thất thập cổ lai hy”, Đoàn
Đức vẫn còn trí nhớ tuyệt vời: Nhớ chi tiết lời cô Nhã bình văn
hồi lớp Đệ lục và lớp Đệ tứ, thầy Hội dạy Anh văn lớp Đệ ngũ, cô
Thanh dạy Pháp văn và thầy Bá dạy Văn lớp Đệ tam C, thầy Tâm dạy
Triết, thầy Châm dạy Anh văn và thầy Gary Carkin dạy đàm thoại tiếng
Anh lớp Đệ nhất C… Theo tôi, thầy Hội, thầy Châm và thầy Gary Carkin
là ba vị thầy có ảnh hưởng rất lớn tới sự nghiệp của Đoàn Đức sau
nầy khi chọn Sư phạm Anh văn ở trường Đại học Sư phạm Huế.
Nguyễn Hoàng là một trường trung học danh
tiếng ở Quảng Trị và cả miền Trung. Thầy cô giáo trường Nguyễn
Hoàng đều là những trí thức ưu tú. Vì vậy, họ đã đã đào tạo ra
nhiều thế hệ học sinh ưu tú, không chỉ cho tỉnh nhà mà còn cho xã
hội. Quả là “Danh sư xuất cao đồ”.
Mừng thay!
Nhưng đáng mừng hơn, qua tập hồi ký nầy, là
tình cảm “Tôn sư trọng đạo” mà
Đoàn Đức, thay mặt cho nhiều thế hệ học sinh, dành cho quý thầy cô
của mình.
Có lúc tôi cảm thấy mình lạc lõng, lỗi thời
khi cứ mãi ôm ấp những hoài niệm về “Tôn
sư trọng đạo”, “Tiên học lễ, hậu học văn”, hay “Nhất tự vi sư, bán tự vi sư”… May thay, đọc “Hoài niệm Thầy Cô giáo”, Đoàn Đức đã
bày tỏ hết những tâm tư mà nhiều năm, nhiều thế hệ chúng tôi chưa
nói được trọn vẹn. Đoàn Đức đã chính xác khi, qua “Hoài niệm Thầy Cô giáo”, đã chứng minh cho mọi người biết
tinh thần “Tôn sư trọng đạo” không
bao giờ xưa cũ, không bao giờ lỗi thời, như trong Lời Tựa:
“Nhắc
cho các bạn đồng khóa 1960 – 1967, các anh chị lớp trước và đàn em
lớp sau đã từng học ở trường Trung học Nguyễn Hoàng – Quảng Trị nhớ
lại cái thuở cắp sách đến trường, đồng thời khoe với mọi người
rằng chúng tôi đã có những thầy cô giáo tận tụy, yêu thương học trò và
một ngôi trường rất mực thân thương…”
Hay quá Đức ơi! Cảm ơn Đoàn Đức.
Trần
Quang Chu
Cử
nhân Giáo khoa Triết, Đại học Huế 1967-1971
Cựu
giáo sư Triết, trường Nữ Trung học Pleime, tỉnh Pleiku
13.
Nguyễn Văn Trị ở TP. Hồ Chí Minh
Email
ngày 02/11/2017
Là người gánh
vác trách nhiệm nối kết sợi dây thân ái giữa các đồng môn và với thầy cô của
Trường trung học Nguyễn Hoàng – Quảng Trị tại Sài Gòn, tôi rất vui khi nhận được
tập sách “Hoài niệm Thầy Cô giáo” do
anh Đoàn Đức gởi tặng. Tôi đã đọc say
sưa những chuyện kể qua dòng ký ức tuôn trào
của anh về quý thầy cô mà anh đã từng học trong đó có một vài thầy cô
tôi may mắn được học qua hoặc gặp gỡ tại
các buổi sinh hoạt của Hội Ái hữu CHS
Nguyễn Hoàng - Sài Gòn.
Bảy thầy cô anh kể trong tập hồi ức này hiện ra như
những ngôi sao sáng trong rất nhiều ngôi sao sáng của tập thể giáo sư trường Nguyễn Hoàng - Quảng Trị với những kỷ niệm được ghi lại qua
trí nhớ “có một không hai” của anh.
Hoài niệm của anh làm sống lại trong lòng học sinh cũ như chúng tôi
những kỷ niệm của mỗi người, của cả lớp và của trường chúng ta về những người thầy cô
của mình. Tôi so sánh mảng hồi ức về thầy cô của anh như nhiều mảnh của một bức
tranh ghép mà chúng ta đã đánh mất theo sự trôi nổi của dòng đời, nay từng người
cố công góp nhặt để ráp thành bức tranh hoàn chỉnh.
Rất đồng tình với anh qua lời chia sẻ ”Tôi rất tiếc là không có cơ duyên được học với tất cả các
thầy cô trường Nguyễn Hoàng nên không thể nhắc đầy đủ tên họ trong tập sách
này. Tuy nhiên, đây có lẽ là điều may mắn vì tập sách nhỏ này sẽ là cảm hứng để
các anh chị, các bạn đồng khóa và các đàn em viết thêm về quý thầy cô mà họ yêu
thương cùng với những hồi ức đẹp đẽ. (trang 18- “Hoài niệm Thầy Cô giáo”).
Rất mong anh chị em đồng môn các thế hệ sẽ lục tìm trong ký ức thời làm học trò các kỷ
niệm về thầy cô giáo của mình để cùng nhau ráp thêm vào bức tranh lớn Nguyễn
Hoàng như món quà tinh thần lưu lại cho
hậu thế.
Tất cả vì Nguyễn Hoàng đoàn kết – thân thương và sẻ
chia của chúng ta!
Nguyễn
Văn Trị
Trưởng
ban Liên lạc Ái hữu Cựu học sinh Nguyễn Hoàng Quảng Trị tại Sài Gòn
14.
Võ Thị Quỳnh ở Huế
Trích « Tiếng vọng từ một tập sách »
Đăng trên phudoanlagi.blogspot.com/2017/12
Trong mùa hạnh ngộ Nguyễn Hoàng Quảng Trị lần thứ V
(21/07/2017) tại Quảng Trị, anh chị Đoàn Đức có tặng cho tôi cuốn sách có tựa đề
“Hoài niệm Thầy Cô giáo”, gọi là mừng
cho cuộc triển lãm tranh “Hoa lá ép mùa hạ”
của tôi tại quê nhà và anh cho biết lý do vì sao lâu nay anh không gởi bài cho Trường Nguyễn Hoàng - Chân dung & Kỷ niệm…
tôi thấy mình được yên ủi khi biết anh chị rất trân trọng hành trình nối vòng tay lớn Nguyễn Hoàng của
mình.
…
Có thể nói tập sách thật trọn vẹn từ hình thức đẹp,
sang trọng với những bức tranh nghệ thuật đầy ý nghĩa nhân văn của họa sĩ Bửu
Chỉ; đến nội dung tròn trịa, viên mãn: Có Lời
giới thiệu của Nguyễn Lê Văn đã gom tập sách 200 trang vào trong vài trang
giấy. Có Lời tựa của tác giả rất chân
thành tình cảm. Phần chính là Bảy chân
dung thầy cô giáo lung linh, sống động trong dòng hoài niệm đầy cảm xúc
tươi mới, dù đã xa cách hơn 50 năm. Tác giả, bằng ảnh in và bằng lời văn nhẹ
nhàng duyên dáng, đã gợi lên nhiều hình ảnh trong tâm trí người đọc. Có Thay lời kết để mở ra một kết thúc có hậu.
Có Lời bạt như và hơn cổ tích của
Nguyễn Văn Quang- viết về một tình bạn trong sáng xuyên thời gian và Hậu ký với
những người bạn thân, người anh, người em từ nhiều vùng, miền… đồng hành cùng
tác giả trên con đường trở về tuổi thơ lộng lẫy.
Cảm ơn anh
Đoàn Đức rất nhiều. Đọc Hậu ký mới biết rằng có những cú hích thật quan
trọng. Vậy nên mong quý anh Nguyễn Lê Văn, Mậu Minh, Văn Quang, Nguyễn Thắng,
Đình Hạnh,… đặc biệt chị Thanh Nhàn, tiếp tục sáng tạo những cú hích khác để ai
kia có “Bộ nhớ tuyệt vời” nhiều “tự ái” làm nên nhiều công trình hoài niệm hơn nữa
cho trường xưa, cho cuộc đời. Vì hoài niệm là để đi tới tương lai.
Huế, 12/12/2017
Võ Thị Quỳnh
Chủ biên tập san «Trường Nguyễn Hoàng – Chân dung và Kỷ niệm »
15. Huỳnh Bá Huy ở TP Hồ Chí Minh
Email
ngày 23/11/2017
CUỐN SÁCH THẤM ĐẪM NGHĨA THẦY - TRÒ
Với trí nhớ tuyệt vời và lối hành văn nhẹ nhàng, cuốn
sách “Hoài niệm Thầy Cô giáo” của Thầy Đoàn Đức như những thước phim tư liệu
trôi qua nhẹ nhàng, kéo quá khứ của hơn nửa thế kỷ trở về đầy ắp yêu thương và
trang trọng. Bảy Thầy Cô được chọn để viết trong cuốn sách hẳn phải để lại những
ký ức sâu đậm trong tâm khảm cậu học trò Đoàn Đức ở trường Nguyễn Hoàng (Quảng
Trị) ngày xưa; cho nên lời kể như chạm với trái tim của tôi - người còn chưa được
sinh ra khi những câu chuyện trong sách xảy ra.
Thật thú vị gặp lại bài thơ “When We Two Parted” của
Lord Byron
When we two parted
In
silence and tears,
Half
broken-hearted
To
sever for years…
mà Thầy đã đọc cho chúng tôi nghe vào mùa hè năm lớp
12 khi chuẩn bị giã từ tuổi áo trắng. Lúc ấy, tôi chưa rõ lắm ý nghĩa của bài
thơ, chỉ nghe Thầy đọc sao mà hay và da diết quá. Khi lớn lên, qua đôi lần
“trong lặng im và nước mắt” mới thấy để diễn tả cảm xúc như thế bằng thơ không
dễ dàng chút nào.
Đoạn Thầy kể gặp lại Thầy Trần Thương Bá ở cửa hàng
sang bán băng dĩa nhạc gây xúc động mạnh cho tôi. Sau 25 năm mất liên lạc, thầy
trò gặp nhau ở đất khách khi gác chuyện dạy học đi làm kinh doanh. Thật đau đớn
cho một giai đoạn những người thầy chỉ muốn làm đúng nghề nghiệp của mình mà vẫn
không đủ điều kiện để làm. Tuy nhiên, bằng bản lĩnh của những người không dễ
dàng chấp nhận sự khắc nghiệt của cuộc sống, các thầy đã vươn lên và thành
công; chứng minh một cách hùng hồn rằng những người thầy khi cần thiết họ có thể
làm nhiều hơn là chỉ cầm phấn viết bảng và soạn giáo án!
Thế hệ học trò trung học phổ thông chúng tôi (lớp
10-12) may mắn có những Thầy Cô với kiến thức uyên bác và lối sống chuẩn mực;
trong đó Thầy Đoàn Đức nổi trội là người có cách giảng dạy đơn giản, dễ hiểu và
yêu quí học trò. Chúng tôi luôn kính trọng sự nhã nhặn và đôn hậu của Thầy. Bây
giờ, đọc “Hoài niệm Thầy Cô giáo” của Thầy lại làm cho tôi hiểu thêm về con người
Thầy: bất chấp thời gian, Thầy luôn gìn giữ những kỷ niệm đẹp của thời đi học,
đặc biệt dành tình cảm cho các thầy cô của mình. Một lần nữa, sau hơn 30 năm
không còn học chữ của Thầy, tôi lại nhận được bài học của Thầy về nhân cách sống
và nghĩa thầy trò.
Charles Kuralt có nói: “Good teachers know how to
bring out the best in students”. Trong ngữ cảnh này, bảy thầy cô được nói đến
trong cuốn sách đều là những thầy cô giáo giỏi vì chính họ đã ươm mầm cho hạt
giống tâm hồn của người học trò Đoàn Đức đơm hoa kết trái như ngày hôm nay. Và
chính bản thân Thầy Đoàn Đức lại là người thầy tuyệt vời cho thế hệ tiếp nối,
thông qua cuốn sách như một lời dạy bảo khiêm nhường, không cần đao to búa lớn
để nói về cách giữ gìn và vun đắp tình nghĩa thầy-trò.
Xin cám ơn Thầy đã chia sẻ yêu thương và mang đến những
điều tốt đẹp nhất kể cả khi Thầy không còn trực tiếp dạy dỗ chúng em! Cuốn sách
– chính vì lý do đó – còn mang đến ý nghĩa sâu sắc và nhân văn hơn.
Sài gòn, mùa Lễ Tạ ơn 2017
Huỳnh Bá Huy
Học trò Thầy Đoàn Đức
Trường THPT Hàm Tân – Bình Thuận, NK: 1981-1984
16. Trần Ngọc Hợp, Con gái thầy Trần Thương Bá, ở
TP Hồ Chí Minh
Email
ngày 05/12/2017
Đã lâu
lắm rồi cháu không còn thói quen trãi lòng mình trên trang giấy nữa. Hôm nay
khi đọc “Hoài niệm Thầy Cô giáo” của chú Đoàn Đức, người học trò thân mến của
Ba cháu. Tự nhiên cháu giật mình khi thấy cảm xúc trong lòng mình òa vỡ như
sóng đại dương, muốn diễn đạt tâm tình này nhưng ngôn từ không theo kịp. Ngôn từ
như con thuyền bé nhỏ chao đảo trên từng đợt sóng chông chênh thì làm sao mà chất
chứa được …
Thôi chỉ
biết òa khóc và thốt lên: “Ba ơi! Con chỉ còn một mình. Con nhớ Ba vô cùng”.
Cháu
xin cảm ơn chú Đức và tất cả cô chú học trò của Ba đã dắt cháu về thăm miền đất
Nguyễn Hoàng – Quảng Trị xa xưa, mới biết được thời trai trẻ của Ba cháu qua những
dòng hồi ức thắm đẫm ân tình thầy trò. Với
cháu, bài viết là thước phim tư liệu, là kỷ vật để cháu hãnh diện và yêu
thương Ba mình hơn nữa. Đây là điều mà cháu vô cùng trân quý và biết ơn.
Cháu Trần Ngọc Hợp.
Con gái thầy Trần Thương Bá
17. Lê Mậu Trúc, cháu ruột thầy Lê Mậu Tâm, ở Bà Rịa
- Vũng Tàu
Email
ngày 31/12/2017
ĐỌC TẬP SÁCH “HOÀI NIỆM THẦY CÔ GIÁO” NHỚ ĐẾN NGƯỜI
CHÚ RUỘT.
Qua anh Lê Mậu Duy, dạy cùng trường với
anh Đoàn Đức trước đây, tôi được tác giả tặng tập “Hoài niệm Thầy Cô giáo”. Nhờ
đọc tập hồi ký này (đặc biệt đọc đi đọc lại bài viết về thầy Lê Mậu Tâm, chú ruột
của tôi), tôi mới hiểu thời gian học từ Tiểu học đến hết Trung học ở
miền Nam trước 1975 nhiều hơn 2 năm so với miền Bắc.
Tôi
cũng ngạc nhiên khi học sinh lên lớp 12 không tiếp tục học Văn mà học Triết,
như thế có đứt đoạn không, nhưng rồi tôi hiểu trong văn chương đã bao gồm triết
lý, nên Triết học soi rọi cho học sinh hiểu rõ phần văn học từ lớp 6 đến lớp
11, hiểu rõ tư tưởng và quan điểm của tác giả khi họ sáng tác.
Một ngạc
nhiên nữa là thầy giáo tự do nghiên cứu các tài liệu khác nhau, vì thế bài giảng
dù tương đồng nhưng vẫn có nhiều dị biệt, thậm chí đối lập. Vậy mới có câu
“Danh sư xuất cao đồ ”. Phương pháp giảng dạy cũng thế, không có khuôn mẫu nào
cả, miễn sao hấp dẫn học sinh chủ động tìm tòi học hỏi để phát huy năng lực của
mình tốt nhất.
Cái hay
của anh Đức, qua bài viết về bảy thầy cô giáo, là đánh thức mối đồng cảm trong
lòng các bạn thân. Họ có chung một quan điểm: Giáo dục là trồng người trên nền
tảng nhân bản, dân tộc và khai phóng, từ đó mới biến “cái vô thức thành hữu thức”
như ngôn từ triết học của anh Nguyễn Lê Văn; không chỉ hình thành nhân cách cho
học sinh mà còn biến thành “trí huệ hoằng viễn với tình cảm phú dật”… Như thế
là chúng ta đã đem “hạt bụi giấu vào trần gian” để nó trở thành một chủng tử.
Chủng tử đó là “con người biết tư duy, có đẩy đủ lòng yêu thương, nhân cách và
tri thức để làm người lương thiện, người tử tế trong xã hội văn minh”. Phải
chăng anh Nguyễn Lê Văn muốn nói đến triết lý giáo dục mà mỗi thầy cô trong tập
sách này đã áp dụng vào phương pháp giảng dạy khai phóng của họ? Sao tôi có cảm
nhận chủ quan như thế đấy. Tôi lại cảm thấy an ủi cho chú tôi khi anh kết thúc
lời giới thiệu: “Các thầy cô chúng ta dù đã ra đi hay còn ở lại, sẽ sống mãi
trong trái tim, trong ký ức của chúng ta như mảnh trăng lưỡi liềm trôi trong bầu
trời xanh thẳm”.
Chú ơi!
Có bằng lòng và vui vì có những học trò như thế không? Riêng cháu khi đọc đến
trang cuối cùng của tập sách, cháu bị ký ức dẫn dắt trở lại ngày xưa ấy mà tưởng
như vừa mới hôm qua…
Đó là tháng 6/1975 mẹ cháu vội vã xin giấy phép về
quê! Ngày ấy giấy phép chỉ cho đến Vĩnh
Linh. Suốt cả ngày đêm đi bộ, mẹ và cháu vào đến cầu Hiền Lương,
mẹ năn nỉ nhiều lần: “Tôi muốn về
quê để xem ai còn ai mất”. Chú công an
thương cảm nên cho hai người qua cầu.
Chiếc xe đò
hiệu Renault thả hai mẹ con cháu xuống chợ Đông Hà,
mẹ mua cho cháu một chén thức ăn
bột màu trắng đục. Cháu ăn như được ăn một thứ gì ngon nhất trên đời! Ngày về lại
nhà ở Nông trường Cờ Đỏ, Nghĩa Đàn, Nghệ An, cháu khoe với bạn rằng: “Vào Miền
Nam mình được ăn món gì mà ngon chưa từng thấy!” Sau này cháu mới hiểu đó chỉ
là một chén “Đậu hủ”!
Trên
chiếc xuồng máy mẹ con cháu xuôi theo dòng sông Thạch Hãn, với làn nước xanh
mát của một ngày hè đầy nắng gió. Lên bến đò là làng quê Bích La Thượng của
mình với hàng tre dọc theo dòng sông. Bước vào làng cháu thấy những hố “Bom” giống
ngoài Nghệ An! Mẹ cháu vội chạy vào nhà ôm chầm lấy “Mệ”(bà nội) và khóc nức nở như đứa trẻ. Cháu đi sau, thấy
một người dáng cao đang lom khom sửa nhà, đó chính là chú. Rồi cả nhà chạy ra bỡ
ngỡ hỏi: “Ai đó Mệ?”. Bà nội nói “Đây là vợ thằng Kế anh của cha các cháu đó”.
Cả nhà rưng rưng nước mắt.
Chú Lê
Mậu Tâm, dáng người thong dong hơi gầy,
với giọng nói trầm ấm thư thái: “Chào chị! Đây là con thứ mấy của anh chị?”
Một hôm chú dẫn đến chiếc xe Honda 67, nói với cháu:
“Chú chở cháu vào Huế và Đà Nẵng cho biết”, nhưng ngày ấy cháu không dám đi, nên sau này hối tiếc!
Làng quê mình thật tiêu điều sau chiến tranh và cháu
hiểu, trên dải đất hình chữ S này nhiều
nơi như vậy, song Quảng Trị là nơi bị tàn phá ác liệt nhất!
Tháng 8
năm 1975 chú đi “Cải tạo” ở Khe Sanh một thời gian ngắn, rồi đưa xuống Cam Lộ
cho đến hết năm 1980 mới về. Sau đó cả
gia đình chú đi vùng kinh tế mới ở Đạ Tẻh - tỉnh Lâm Đồng. Tết năm 1981 cháu đến
thăm nhà chú, một nơi chưa có đường cho xe đạp đi, muốn sang đường khác bên kia
khe suối chỉ có cách bò trên những thân cây được bắc làm cầu. Từ xa, cháu
đã thoáng thấy dáng người cao gầy của chú cùng với sáu đứa con (4 trai 2 gái) đứa
đang phát rẫy, đứa gieo lúa, đứa trồng sắn, khoai…
Năm 1983 chú và cậu đến thăm gia đình cháu ở Nông trường trồng bông
Đá Bàn ở Ninh Hòa- Khánh Hòa và thăm cháu đang học ở Nha Trang. Ngồi trên bờ biển,
với giọng trầm ấm chú nói cho cháu nghe bao điều về Triết học Đông phương và
Tây phương. Chú giảng giải tính nhân văn của môn Triết. Thật là một con người
hiểu sâu và cặn kẻ lĩnh vực Triết học. Nhờ thế sau này cháu hiểu được bức tranh
tổng thể của Triết học.
Rất tiếc cháu không được thấy mặt khi chú qua đời tại Đạ Tẻh - Lâm Đồng ngày 15 tháng 7 năm 1988 chỉ
vì bệnh cao huyết áp!
Nay đọc bài viết của anh Đức, cháu tiếc mình không
được làm học trò lớp 12C ấy; để được nghe những lời giảng cao diệu của chú; để
được tranh luận và hiểu Triết học là môn học về con người; để được hiểu những
điều tầm thường và giản dị khi sống với nhau trong cuộc đời này. Nhưng dù muộn
vẫn còn hơn không. Nay cháu đọc bài viết về chú nên hiểu rõ hơn những lời giảng
của chú năm nào trên bãi biển Nha Trang. Chú ơi! Giờ cháu hiểu lời của Camus rồi
“… trong bầu trời pha trộn nước mắt và ánh sáng trái đất, tôi tập chấp nhận cuộc
đời này và đốt lửa lên trong ánh mờ của hội vui cuộc đời…” để mà “không bất
mãn với hiện tại, không nuối tiếc dĩ vãng, chỉ mơ ước một tương lai tốt đẹp
hơn” và “biết trân trọng và thông cảm với con người vì đó là một kiệt tác của tạo
hóa”. Chắc chú sẽ mỉm cười với đứa cháu phiêu bạt này rồi, như ngày xưa chú
cháu mình gặp nhau lần đầu.
Xin cám ơn anh Đoàn Đức và các anh chị cựu học sinh
Nguyễn Hoàng đã nghĩ đến và tri ân các thầy cô cũ, trong đó có chú Tâm của tôi,
cùng với ngôi trường ngày ấy.
Lê Mậu Trúc
18. Nguyễn Phụng Lương Nhi, con gái cô Nguyễn Thị
Nhã ở TP.HCM
Email
ngày 24/03/2018
Thân gửi Anh Đức,
"Có lẽ tài sản quý giá nhất của người cầm phấn
trên bục giảng là được học trò nhớ đến, tri ân qua những vần thơ con chữ thấm
đượm những lời tốt đẹp dành cho mình khi đến tuổi về hưu, xế chiều và khi đã đi
xa khuất.
Với một xã hội hiện tại khi mà nền văn hoá xuống cấp,
mối quan hệ thầy trò mất đi tính thiêng liêng và bị chi phối bởi nếp sống kinh
tế lỗi nhịp, thì sự trân trọng và tri ân của học sinh với cựu giáo viên càng thêm có ý nghĩa sâu đậm biết chừng nào.
Nó như một cơn mưa rào xoá đi những tháng ngày oi bức của mùa hè và tạo niềm
tin cho con người, cho con cháu của thầy cô giáo và càng nâng cao tinh thần tôn
sư trọng đạo
Thật may mắn và tự hào được là người con của cựu cô
giáo NGUYỄN THỊ NHÃ, khi được nghe, được đọc những lời hay ý đẹp, những trải
lòng của cựu học trò về những kỷ niệm, những bài giảng văn với những phân tích
phá cách, những mẫu chuyện vụn vặt trong sáng bên lề tình nghĩa cô trò… vẽ ra
toàn cảnh một bức tranh đầy màu sắc thơ mộng của cựu học sinh trường Nguyễn
Hoàng – Quảng Trị. Những điều này phận
làm con không được nghe Me chúng tôi kể lại trong những lúc tâm tình, có lẽ đây
cũng là một phần tính cách của Me chúng tôi không muốn nói nhiều
về mình.
Đọc hết những trang chữ lời thư, nghe qua những câu
chuyện thân thương của những anh,chị học trò, chúng tôi mới thấu hiểu được những
vất vả, thiếu thốn trước đây, mới hiểu hết được cái mênh mông, cái bao la của
nghề nhà giáo, mới cảm nhận được tình yêu nghề yêu học trò của Me - người giáo
viên trải qua hai thế hệ lịch sử của dân tộc trước và sau 75.
Là người con của Me, thay mặt gia đình chúng tôi xin
chân thành cảm ơn đến các Anh, các Chị đã bỏ công sức thời gian, lục soát tìm
tòi những ký ức đẹp để viết lại những những câu chuyện tình cảm chân thành của
các thế hệ học trò đối với Cô Nguyễn Thị Nhã là người Mẹ, người Bà của chúng
tôi.
Cám ơn “Anh học trò” Đoàn Đức đã dẫn dắt con, cháu của
chúng tôi về những ký ức ngày xưa để hiểu Me, Bà hơn ở vai trò “trồng người”.
Cám ơn tình cảm chân thành của các Anh, các Chị cựu học sinh Trường Nguyễn
Hoàng – Quảng Trị đã cố gắng để hoàn thành cuốn sách này, cũng như những tập
san khác. Cám ơn nhà xuất bản…. Cám ơn gia tài tuyệt vời của Me đã để lại cho
các con, các cháu đời sau!
Có lẽ nơi suối vàng Me cũng mỉm cười hạnh phúc với
những tình thương vô bờ bến mà thế hệ cựu học trò mang lai cho Me khi còn sống
và khi đã khuất.
Cầu chúc cho tình Cô trò mãi vĩnh hằng như “đá vẫn
trơ gan cùng tuế nguyệt”
Một lần nữa xin đa tạ các Anh Chị.
Chúc các Anh Chị có một cuộc sống viên mãn, an
nhiên.
Thân ái
Nguyễn Phụng Lương Nhi
19. Lê Duy Đoàn ở TP Hồ Chí Minh
Email
ngày 03/10/2017
“Hoài Niệm Thầy Cô Giáo”- Một quyển sách giá trị, một
tấm lòng.
Một tác phẩm tuyệt vời viết về bảy thầy cô giáo trường
Nguyễn Hoàng, Quảng Trị. Những bài viết là ký ức về thầy cô của anh từ những
năm 1960. Tình cảm thương yêu, lòng tri ân sâu sắc thầy cô và những bài giảng ấn
tượng của họ được anh viết ra với các chi tiết rõ ràng như vừa mới học hôm
qua.
Anh học, thấm và biết ơn thầy cô qua từng dòng ký ức.
Ít ai viết được như vậy.
Quyển sách khắc họa tấm lòng của thế hệ học trò
“Quốc văn giáo khoa thư”, một thế hệ mà thầy cô là những người đáng kính yêu
và khuôn mẫu noi theo để làm người tử tế.
Lê Duy Đoàn. Tốt nghiệp Đại học Huế.
Họa sĩ, nhà văn TP Hồ Chí Minh.
20. Hoàng Văn Thắng, San José - USA
Email
ngày 02/04/2018
Tôi rất bồi hồi và cảm động vì mình có cơ hội sống lại
những ngày thơ ấu qua từng bài viết của anh Đoàn Đức khi đọc “Hoài Niệm Về Thầy
Cô Giáo”.
Có thể đây là một quyển sách mà tác giả trân trọng
nhất viết về tài năng, đạo đức của quý Thầy Cô, những người đã đem công sức rèn
luyện bao thế hệ học sinh của trường Nguyễn Hoàng ở tỉnh Quảng Trị. Tôi vô cùng
ngạc nhiên về trí nhớ này, nhờ đó mới có được năng lực truyền đạt cho độc giả
hiểu biết về Thầy Cô của chúng ta, của anh Đoàn Đức.
Tôi tự hỏi, chắc hẳn tác giả nhờ ký tính mạnh mẽ của
mình nên đã âm thầm thu thập tài liệu, sắp đặt lại qua sự hồi tưởng mới ghi được
những hoạt động, những kỷ niệm học tập rải rác đó đây xảy ra trong lớp học để
làm nổi rỏ lên tài ba và kiến thức tuyệt vời của Thầy Cô giáo. Chính những điều
này là chất liệu cho tập hoài niệm. Tôi, vì thế, không ngạc nhiên khi tác giả
diễn đạt qua lối viết tình cảm của mình đối với Thầy Cô một cách nồng nàn,
phong phú và tự nhiên. Có phải vậy không anh Đức?
Quảng Trị trong những năm thanh bình, khi chiến
tranh chưa xảy đến với mức độ khốc liệt, những học sinh học ở trường Nguyễn
Hoàng đều biết đến bộ ba học sinh học giỏi, chăm chỉ vui tính: Đoàn Đức, Nguyễn
Thắng, Đỗ Tư Nghĩa trong số học sinh ưu tú của trường trung học tỉnh lỵ và một
trong số những đàn em ngưỡng mộ họ, là người đang viết lời nhận xét này.
Tôi rất vui mừng khi tình cờ trên diễn đàn đồng môn
Nguyễn Hoàng, được đọc một số bài của tác giả Đoàn Đức về Thầy Cô do người cháu
là Đoàn Minh Phú đăng lên, nhờ vậy tôi mới liên lạc được với anh sau thời gian
50 năm bặt tin. Chính anh Đức đã từng là một nhà giáo thâm niên, làm hiệu trưởng
khi còn trẻ tuổi, đã dạy dỗ dẫn dắt bao nhiêu học sinh đến bến bờ kiến thức và
đạo đức nên anh quý mến thầy cô cũ của mình là một điều dĩ nhiên.
Với sự kính trọng và cảm mến của một đàn em, xin
trân trọng kính giới thiệu đến người đọc một quyển sách ghi lại những kỷ niệm về
các Thầy Cô trường trung học Nguyễn Hoàng dù có đôi chút xa lạ. Còn các bạn đồng
môn chắc chắn sẽ tìm thấy bóng dáng của mình trong đó qua những lời văn dí dõm
nhưng súc tích và tràn đầy tình cảm của tác giả.
Hoàng Văn Thắng
Cựu học sinh trung học Nguyễn Hoàng 1961-1968
Cảm tưởng của thầy Hồ Si ̃Châm khi đọc “Hoài Niệm Thầy Cô Giáo”
Nhân chuyến vào Sài gòn thăm bà con và đồng
nghiệp khoảng trung tuần tháng 9 năm 2017, thầy đưa cho tôi bài viết
bằng tiếng Việt và cả bản chuyển ngữ tiếng Anh. Nay tái bản, tôi xin
phép in những cảm nghĩ của thầy vào cuối tập, như tiếng đồng vọng
của một lão sư ở tuổi bát tuần với người học trò nhỏ ngày xưa, và
được thầy đồng ý. Trân trọng cảm ơn thầy.
Tôi viết lên đây không phải chỉ cho cá nhân tôi mà
xin phép được đại diện cho quý đồng nghiệp của tôi một thời cùng dạy ở trường
Nguyễn Hoàng. Trước hết cảm ơn ngôi trường, cảm ơn tất cả học sinh và em Đoàn
Đức đã cho chúng tôi trở lại tìm thấy “những bước chân tưởng đã tan, nhưng vẫn
ghi những dấu ấn không thể nào tan được trong quá khứ.” (Nguyễn Lê Văn). Tôi
tìm lại được không những bước chân thời đi dạy mà còn những bước chân thuở học
trò. Nếu được đọc những lời tâm huyết trong tập sách này sớm, chắc các thầy cô
chúng tôi phải giật mình suy nghĩ lại phương pháp đã giảng dạy; nhất là tình cảm
thầy trò để biết rằng nghề giáo không phải là một nghề bạc bẽo. Thầy giáo
không phải là bến đợi, sân tàu chơ vơ, chờ những chuyến tàu đến và đi như lời
thầy Lê Văn Sét trong tập lưu bút cho học trò Nguyễn Thắng “Học trò ví như con
tàu, Thầy là bến tàu. Thuyền ghé bến rồi lặng lẽ xuôi đi để lại cho bến kia một
nỗi buồn không bao giờ dứt.” Vui lên chứ sao lại buồn được. Nếu biết mỗi con
tàu đi qua bến dừng lại một lát nhưng lại mang theo hình ảnh của bến đợi
để làm chất liệu sống trong suốt hành trình cuộc đời.
Tôi cùng một ý với cô Nguyễn Thị Thanh, cảm thấy may
mắn đã dạy ở trường Nguyễn Hoàng, cảm thấy nghề thầy của mình có hậu vì có những
người học trò còn nhớ những bài giảng ngày xưa và tiếp tục truyền thụ kiến thức
cho lớp người kế tiếp để sống đẹp trong cuộc đời như Nguyễn Văn Quang đã viết
trong lời Bạt cuối sách: “Lớp học trò chúng tôi không dám nghĩ đến những điều
thấp hèn vì sợ tổn thương đến uy tín, thanh danh và công lao dạy dỗ của thầy cô
mình”. Anh đã nhân bài viết của Đoàn Đức để tế nhị tỏ lòng tri ân thầy cô cũ
chúng tôi và nhắn nhủ cho lớp học trò đã từng học với anh. Xin ghi nhận tấm lòng
này. Rồi Nguyễn Lê Văn đã khéo léo bày tỏ cảm xúc sâu sắc của mình khi phân
tích tính năng tác động của những phương pháp giảng dạy của các thầy cô đối
với tâm trí học trò, để họ sau này lớn lên biết vận dụng sao cho đúng khi vào
đời và có bản lãnh hòa nhập cuộc sống. Mà thật như anh đã nói: “Giáo dục là hành trang vào đời, giáo dục
là biến cái vô thức thành hữu thức, vì nó trở thành trí huệ tưởng như hoằng viễn,
với tình cảm phú dật, thênh thang của một tấm lòng đã đưa ta về đi trên con đường
cổ tích, nhưng vẫn yêu tận cùng và biết tận hưởng cuộc sống hiện tại”.
Tôi thưởng thức không chỉ những bài viết Hoài niệm
về thầy cô giáo mà ngay cả Lời Giới Thiệu, đến Lời Bạt và phần Hậu Ký. Đây là
một bản hợp-xướng-Nguyễn-Hoàng, mà phần hoài niệm là cung bậc chính (key note)
trong dàn đồng ca của những người có chung một tâm tình, một tấm lòng tưởng nhớ
đến ngôi trường nay không còn nữa ở vùng đất nắng gió Quảng Trị. Các em đã làm
tôi thổn thức nhớ tới thời gian dạy ở trường Nguyễn Hoàng, nhớ đến thời học
sinh đi học ở trường Khải Định, trường Quốc Học Huế và đi du học tại Hoa Kỳ.
Làm sao quên được cô Nguyễn Thị Nhã cùng học lớp đệ
Nhất C2 (lớp 12C) tại trường Quốc Học. Cô ngồi một trong hai bàn đầu dành cho nữ
sinh. Thuở ấy không biết có phải vì ảnh hưởng “nam nữ thụ thụ bất thân” không
mà bọn con trai chúng tôi ngại giao tiếp với nữ sinh, “chỉ biết mặt mà không biết
lời”. Qua bài viết của Đức, tôi nghĩ cô Nhã nhờ được học với các giáo sư đại học
của Viện Đại Học Huế mới thành lập lúc
bấy giờ, nên có kiến thức chuyên môn đầy đủ, sâu rộng và mới lạ như thế
để truyền thụ cho các em học sinh một cách hấp dẫn, chính xác và sinh động bằng
phương pháp riêng của mình. Tôi còn nhớ những năm đệ Tứ (lớp 9) và đệ Tam (lớp
10), chúng tôi không học được bao nhiêu về văn chương Việt Nam, thầy dạy lớp
chúng tôi kiến thức giới hạn, sách dạy hiếm hoi, vì vậy chúng tôi chẳng tiếp
thu được kiến thức sâu sắc và thú vị như các em được. Tuy dạy cùng trường Nguyễn
Hoàng, nhưng ít khi gặp gỡ cô Nhã vì tôi
dạy buổi sáng còn cô dạy buổi chiều. Nay cô không còn nữa, tôi xin đốt một nén
tâm hương nghiêng mình cầu mong cô được về miền an lạc, và tin chắc rằng cô xứng
đáng được đón nhận về nơi đó vì cô đã “cầm chính đạo để tịch tà cự bí” để hình
thành cho các em một con đường trung dung của kẻ sĩ có nhân cách, tìm đến “minh
minh đức” và “chỉ ư chí thiện” qua các tác phẩm của Nguyễn Du, Nguyễn Công
Trứ, Cao Bá Quát, Nguyễn Khuyến, Chu Mạnh Trinh, Trần Tế Xương… trong chương
trình học.
Anh Trần Thương Bá là một người tài hoa mệnh bạc.
Tôi biết anh là một giáo sư tốt nghiệp Đại học Văn khoa, giỏi tiếng Pháp, nhưng
hiếm khi có dịp nói chuyện vì anh ít khi vào phòng giáo sư mà chỉ đến trường
đúng giờ vào lớp để dạy. Sau gần hai năm dạy ở Nguyễn Hoàng, anh bị gọi nhập ngũ. Nay đọc bài viết khá dài
của Đoàn Đức về anh, tôi mới biết anh dạy văn chương hấp dẫn, lôi cuốn học sinh
và có nhiều học sinh xem như “tri âm, tri kỷ” quả thầy trò thật là đồng
điệu. Tôi tiếc ngày xưa không được đàm đạo văn chương triết học với anh. Bài
viết về anh rất cảm động, đặc biệt về cuộc đời thăng trầm, về đời sống khó khăn
trong buổi giao thời và hoàn cảnh gia đình anh cho đến lúc qua đời. Rất tiếc
anh ra đi quá sớm, để lại nỗi đau buồn thương tiếc cho con gái, người thân và
những học sinh thân yêu cũng như bạn bè xa gần. Tôi thấy vui mừng vì các em
may mắn được học với những thầy cô giáo dạy văn chương có tâm hồn và khả năng
như các thầy cô của Đức.
Tôi nhớ một cô giáo duyên dáng, có tài năng và
phương pháp hấp dẫn học sinh học tập và yêu mến tiếng Pháp: Cô Nguyễn Thị Thanh. Cô ra trường dạy ở Nguyễn Hoàng sau tôi một năm. Lúc đó tôi chỉ biết cô
là người Quảng Trị, bà con với anh Nguyễn Thiện, cũng là giáo sư Pháp văn tốt
nghiệp Đại học Sư phạm. Mặc dù cô dạy cùng giờ, cùng một lớp Tam C, Nhị C (lớp
10C và 11C) mà chẳng gặp được vì tôi dạy Anh văn sinh ngữ I còn cô thì dạy Pháp
văn sinh ngữ II và ngược lại, nên học sinh phải chia hai để học với hai thầy
cô. Tuy chưa bao giờ quen biết trước đây nhưng tôi thấy cô rất sympathique.
Qua bài viết, cô dạy Pháp văn rất rõ ràng chính xác,
hấp dẫn và tạo phương pháp đưa các em tiếp cận với văn chương Pháp, với nhà văn
Pháp nỗi tiếng. Có điều những bài cô dạy cho học sinh lớp Nhị C sinh ngữ II tôi
thấy trình độ khá cao. Tôi nhớ ngày xưa lúc học lớp 9 ở trường Khải Định dù
môn Pháp văn sinh ngữ I, giáo sư cũng không bao giờ cho học các bài như La
Rentrée des Classes hay Pensées d’Automne. Tôi phải tự tìm kiếm để học một mình
vì vậy đến bây giờ, sau 60 năm, tôi còn có thể đọc trầm (thuộc lòng) các bài
này một cách trôi chảy. Phải lên lớp 11, 12 tôi mới có thể đọc các tác phẩm như
Graziella, La Symphonie Pastorale… vì môn Pháp văn là sinh ngữ I, mỗi tuần 8
giờ , trong khi các em học sinh ngữ II
mỗi tuần 6 giờ mà cô đã khuyến khích đọc các tác phẩm trên dù bằng cách nào đi
chăng nữa thì quả là giỏi, thật đáng phục. Thời gian trôi qua, cô vắng bóng ở
trường Nguyễn Hoàng, không biết đổi về dạy ở đâu. Sau những năm 2000 gặp lại cô
ở các buổi hội ngộ cựu HS Nguyễn Hoàng tôi muốn hỏi thăm chuyện nhưng cô bận
hàn huyên với các cô khác nên đành thôi.
Riêng anh Lê Mậu Tâm, là người cùng Huyện Triệu
Phong, Quảng Trị với tôi, cùng học lớp đệ Tam, đệ Nhị C tại trường Quốc Học Huế,
chỉ khi lên lớp đệ Nhất C thì anh chuyển đi trường khác. Mãi đến khi tôi về dạy
tại trường Nguyễn Hoàng được ba năm thì anh được đổi về dạy môn Triết cho tất cả
các lớp đệ Nhất (lớp 12) ở đây. Tôi với anh có vài duyên nợ. Tôi trước có kèm
Anh văn cho con trai của anh; sau đó năm 1972 tôi vào tạm cư tại Nha Trang anh
lại giúp lãnh lương và gửi vào cho tôi. Thời gian đi kinh tế mới ở Lâm Đồng,
anh có xuống Nha Trang thăm tôi, lúc đó sức khỏe anh vẫn tốt. Không ngờ anh
đã qua đời đột ngột. Trong lòng tôi thường nghĩ về anh, tiếc là chưa có cơ
hội để lên Lâm Đồng thăm mộ phần của anh.
Anh Lê Mậu Tâm là người mà Đoàn Đức trông đợi để được truyền đạt kiến thức triết học. Có anh, trường Nguyễn Hoàng mới mở lớp đệ Nhất
C. Anh là người chân chất, thật thà nên lối truyền đạt của anh không văn hoa, bay
bướm như các giáo sư vừa dạy Văn vừa dạy Triết. Anh như các thiền sư, trực chỉ
vào vấn đề để người học hiểu rõ ý nghĩa chân thực của các triết gia, phân biệt
đâu là căn nguyên của tư tưởng như Đoàn Đức đã nhận xét và tâm đắc. Cuộc đời thật
biến ảo, nào ai biết ngày sau. Một giáo sư triết học làm sao mà đương đầu với
cuộc đổi đời dâu bể can qua. Người cầm bút khó có thể cầm cuốc một cách thành
thạo được dù “gặp thời thế, thế thời phải thế ”. Âu cũng là số mệnh! Một người
am hiểu triết học sâu sắc mà cuối cùng cũng chỉ để mà suy nghĩ về cái tính cách
phi lý của cuộc đời và thân phận xót xa của mình, nên đành “ngày ngày lặng lẽ
vác cuốc ra nương rẫy rồi cuối cùng lặng lẽ ra đi”, chẳng ai hiểu và cảm thông
với mình. Nay chỉ còn nấm cỏ khâu
xanh rì. Sao bỗng thấy lòng nghẹn ngào và mắt
nhòa lệ:
Ôi ! Bé bỏng một tấm thân người.
Một chiếc thuyền nan bồng bềnh giữa hai bờ sống chết.
Có nỗi thương của Jêsu, có nước mắt của Phật.
Và trên tay áo này,
Trên tay áo này
Những giọt đau!
Những giọt đau!
Của mẹ, của em của những bọt bèo số phận.
…
Trên một bến bờ vực thẳm.
Đời sao có những say đắm
Trong cõi lạnh hư vô?
Đời sao có những say đắm
Trong cõi lạnh hư vô?
Lưu Trọng Lư
(Đường ta đi thế đấy bạn lòng ơi!)
Với thầy Trương Ngọc Hội, cái hay của thầy là để lại
cho các em một vài cảm xúc đơn sơ về thi ca Anh; cũng như về văn xuôi của Mark
Twain trong The Adventures of Tom Sawyer (Những Cuộc Phiêu Lưu của Tom
Sawyer) hay của O. Henry trong The Last Leaf (Chiếc Lá Cuối Cùng), và The Gift
of the Magi (Món Quà Của Các Đạo Sĩ) đã nói lên tính nhân bản trong tiểu thuyết
và truyện ngắn của Mỹ.
Riêng về tôi, như đã trao đổi với Đức khi em gởi bản
thảo cho tôi đọc trước khi in. Tôi có điều chỉnh cho rõ ràng lời giảng của mình
lúc phê bình câu tục ngữ “Out of Sight, Out of Mind” và tôi có hỏi Đức là “Are
you sincere?” (Có trung thực không?) khi nhận xét bài giảng môn tiếng Anh của
tôi minh họa cho môn Triết của thầy Tâm; và không quên cảm ơn Nguyễn Lê Văn
đã nối kết thầy Gary Carkin vào với tôi trong khi cùng dạy tiếng Anh lớp đệ Nhất
C, đó là một sự phối hợp tình cờ không hẹn trước. Bài viết của Đức khi mail ra
Nha Trang cho tôi hiệu đính, con gái tôi lại thừa dịp mail cho chị gái ở Mỹ, rồi
biết được bài viết chưa đăng ở báo nào, cháu liền đăng trên báo của cộng đồng
người Việt ở đó. Những độc giả và bạn của con tôi trầm trồ khen ngợi, sau 50
năm mà học trò còn nhớ những lời thầy giảng, lại bày tỏ tình cảm với lòng tri
ân sâu sắc với thầy cô như thế thật là hiếm hoi; và như thế, những thầy cô trường
Nguyễn Hoàng đã dạy như thế nào mới để lại dấu ấn sâu đậm trong tâm hồn của học
trò.
Tôi rất thích Robert Frost, người được xem là nhà
thơ Mỹ vĩ đại nhất của thế kỷ 20, được mời đọc thơ trong lễ nhậm chức của Tổng
Thống Kennedy năm 1961, khi Robert Frost 86 tuổi, chứng tỏ rằng một nước Mỹ dù
độc lập hàng trăm năm, ma i đến lú c đó mới coi trọng giá trị của thi ca ngang bằng với thương mại và kỹ nghệ. Tôi
cũng không ngờ những gì tôi giảng về Frost vẫn còn lưu lại trong ký ức của Đức.
Điều này minh chứng rằng một hành động đã làm không bao giờ mất cả, như
Longfellow trong bài thơ “The Arrow and the Song” khi bắn mũi tên hay hát một
bài ca trong không gian, tưởng đã mất nhưng vẫn còn :
The Arrow and the Song
…
Long, long afterward, in an oak
I found the arrow, still unbroke;
And the song, from beginning to end,
I found again in the heart of a friend.
Longfellow
Tái Ngộ
…
Mãi về sau mũi tên bay ngoài nội,
Vẫn vẹn nguyên trong một gốc sên già.
Và vẹn nguyên cả âm điệu lời ca,
Lại tìm thấy trong tim người bạn ngọc.
Hải Minh dịch
Cảm ơn các em đã vinh danh thầy cô cũ, dù rằng Đức
khẳng định đó là những sự kiện chân thật chứ không phải hư cấu “không bột sao gột
nên hồ”. Phải chăng vì thế mà cô Nhã đã nhận định bài viết của Đức là sâm
Cao ly cho các thầy cô còn sống, là nén hương lòng đối với thầy cô đã qua đời…
Tôi không coi đây là tập hoài niệm tường thuật bằng
trí nhớ về các bài giảng của thầy cô ngày xưa mà là một tác phẩm, vì tác giả đã
đem tâm tình làm sống lại tình thầy trò, bạn bè và sự học tập giảng dạy dưới
mái trường Nguyễn Hoàng xưa, đã để lại chút gì trong lòng không chỉ một mà nhiều
thế hệ học sinh Quảng Trị.
Sau khi đọc tác phẩm, gấp sách lại, tôi như nghe được
một tiếng vang, tiếng vang của một viên đá cuội rơi vào mặt nước giếng tĩnh lặng
của lòng mình. Tôi tin chắc các thầy cô giáo cũ cũng như những thầy cô giáo và
học sinh ngày nay sẽ cùng chung cảm nhận nếu có cơ hội đọc tập sách nhỏ bé này.
… Tôi chợt thấy lòng rộn lên và mỉm cười khi có một
người học trò như thế!
Nha trang, ngày 27 tháng 08 năm 2017
Hồ Sĩ Châm
Impressions from reading “Reminiscences of Teachers”
By Ho Si Cham
I am not writing this on my own behalf, but for the
colleagues with whom I taught at Nguyen Hoang High School. First of all, I
would like to thank the school, all the students, and Doan Duc, who gave me an
opportunity to retrace “the footsteps which seemed vanished, but still bear the
impressions which have not faded with time” (Nguyen Le Van). I found not only
the footsteps of my teaching time, but also the footsteps of my school days. Had
we been able to read the heartfelt words in this book earlier, we as teachers
might have been surprised to re-evaluate our teaching methods, particularly our
perspective on the student-teacher relationship. We might have realized that
the teaching career is not an ungrateful one, only a waiting wharf; a desolate
station waiting for trains to arrive and depart. As Mr. Le Van Set wrote in
Nguyen Thang’s “Yearbook of Memories;” “The student is like the ship, and the
teachers are like the port. The ship calls at the port, then silently floats
away and leaves an endless melancholy in its wake.” We should be cheerful, not
sad. We must realize that each ship which passes by the port and stops there a
moment, will carry the materials of that port and rely upon them throughout its
journey through life.
Having the same feelings as Mrs. Nguyen Thi Thanh, I
felt happy that I had taught at Nguyen Hoang High School. I realized that a
teaching career had a happy ending because the students still remembered the
lessons of the old days, and continued to pass that knowledge on to successive
generations, improving the life of those future generations. As Nguyen Van
Quang wrote in the epilogue of Doan Duc’s book, “Our classmates dare not be
small-minded, lest they harm the prestige, fame, and reputation of our
teachers.” After reading Doan Duc’s writing, Nguyen Van Quang felt gratitude to
his old teachers and therefore passed these ideas on to his own students. I
really appreciated Quang’s sentiments.
Nguyen Le Van skillfully expressed deep emotions
regarding the methods of teaching students, which would allow them to
effectively apply what they had learned with confidence, in their own lives.
His exact quote, “Education is the blood of life, education’s purpose is to
translate the unconsciousness into consciousness, because education is with us
forever, and gives us an open mind and an empathetic heart, we are able to live
a full and enjoyable life.”
I enjoyed not only “The Reminiscences of Teachers”
but also the Introduction, the Epilogue, and Afterword. These additional
writings are the chorus of Nguyen Hoang High School, but “The Reminiscences of
Teachers” is the keynote in a choir of students who have a common love and
emotional connection to a school that doesn’t exist anymore in the sunny and
windy region of Quang Tri today. All of you made me sob to recall the period
when I taught at Nguyen Hoang, the time I attended Khai Dinh School and Quoc
Hoc Hue, and also my studies in the USA.
How could I forget Mrs. Nguyen Thi Nha, my classmate
in 12C at Quoc Hoc High School? She sat at one of the two tables in the front
of the class reserved for girl students. At the time, I didn’t know her well
due to the idea that “boy and girl should not be close to each other,” so the
boy students like myself, were reluctant to contact the girl students. In other
words, I knew her only “by sight, and not by speech.” After reading Duc’s book,
I realized that Mrs. Nha had learned from the founding professors of Hue
University; therefore she received an exceptional education of the newest
concepts, providing for a deep and broad knowledge base. She passed this
knowledge on to her students in her own lively way which excited their
curiosity and made them eager to learn.
Though we taught together at Nguyen Hoang High
School, I rarely saw her because I taught in the mornings, and she taught in
the afternoons. Now that she has passed away, may I burn a heartfelt incense,
and respectfully bow, wishing her entrance into the blissful realm. I felt she
deserves to be accepted to that place because of the way she used the
“righteous path” to conquer “ill-doers” and resist the efforts of the
“clandestine malefactors.” She accomplished this goal by sculpting her students
into people who would follow a balanced path, living with “clear virtue” and
seeking “the absolute good” using the writings of Nguyen Du, Nguyen Cong Tru,
Cao Ba Quat, Nguyen Khuyen, Chu Manh Trinh, and Tran Te Xuong in her
curriculum.
Mr. Tran Thoung Ba was a talented man, but was not
blessed with luck throughout life. I knew that he graduated from the Faculty of
Letters in Hue, with a talent for French, but we rarely had the opportunity to
talk because he rarely entered teachers’ room. He typically arrived at school
just in time to walk into class and start teaching. After nearly two years
teaching at Nguyen Hoang, he was drafted into military service. Reading a
rather long story about him written by Doan Duc, I learned that he taught
Vietnamese Literature in a way that inspired and attracted students so much, so
that many of them considered him a close friend and confidant, he seemed to
have the same harmonious rhythm as his students. I always regretted missing a
chance to have a conversation with him at this time. The passage written about
him is deeply moving, particularly the section about the vicissitudes of life,
the extreme difficulty of living through the transitional period of our
country, and the trials of his family life until he passed away. Regretfully,
he departed this world too early. He left behind the grief of his loss, and
regret with his daughter, relatives, his dear students, and friends, for the
time lost due to his early passing. I felt happy though, because you were all
lucky to have learned from teachers of Vietnamese Literature who were as
talented as all of Duc’s teachers.
I remembered a graceful teacher whose talent
inspired her students to learn and love French: Mrs. Nguyen Thi Thanh. She came
to teach at Nguyen Hoang High School one year after me. At that time, I only
knew her as a native of Quang Tri and a relative of Mr. Nguyen Thien, who was
also a French teacher having graduated from the Faculty of Pedagogy at Hue
University. She and I taught at the same hour and the same class 10C and 11C,
but there were two sections: first language and second language. While she was
teaching French (first language), I was teaching English (second language), and
vice versa, so we rarely met each other. Though I had never met her before, I
got the sense that she was sympathetic.
Through Doan Duc’s writing I learned that she taught
French clearly, precisely and had a style which led students to feel a
connection with French Literature and with famous French writers. She also
taught French at a level that was untypically too high for second language. I
remember when I attended class 9 at Khai Dinh School, even when French was the
first language, the teacher never gave us any passages from “La Rentree des
Classes” (Returning to School) or “Pensees d’Automne” (Thoughts of Autumn). I
had to look these passages up on my own to learn them, and even now, after 60
years I am able to recite them fluently. When I reached 11th and 12th grade I
was able to read books such as “Graziella,” “La symphonie Pastorale,” etc. This
was because French was my first foreign language and each week we had 8 hours
of study. At the same time Mrs. Nguyen Thi Thanh’s students only had 6 hours a
week, but because she believed in her students and encouraged them to read
these books, despite them being at a higher level, her second language students
were able to read these books, which I really admired. With time, she
eventually left Nguyen Hoang High School. I didn’t know where she had been
transferred to. After the 2000s, meeting her at the reunion of Nguyen Hoang’s
former students, I wanted to ask her about her time after leaving Nguyen Hoang,
but she was busy talking to other ladies, so I was unable to.
As for Le Mau Tam, he lived in the same district as
me, Trieu Phong, Quang Tri. He attended the third and second class (10, and 11)
at Quoc Hoc Hue with me. When I was in the first class (final year) he moved to
another school. After I returned to Nguyen Hoang for three years he transferred
there to teach philosophy to all of class 12. He and I had a natural
friendship, I helped teach his son English. Late in 1972 I moved to live at a
temporary camp for refugees in Nha Trang, while there, he helped me to get my
monthly salary and send it to me. During this same period, his family moved to
the new economic zone in Lam Dong, and he came to visit me in Nha Trang. At
this time, his health was still fine. I never expected him to leave this world
so suddenly. I often thought about him. Unfortunately, I have not had a chance
to visit his grave yet.
As a student of philosophy, Doan Duc had high
expectations for Mr. Le Mau Tam and was eager to be taught by him. Thanks to
Mr. Tam, Nguyen Hoang High School was able to open class 12C in Philosophy. He
was an honest and sincere person, therefore, he didn’t have the flowery
explanations of a teacher who taught both Literature and Philosophy.
As a teacher Mr. Le Mau Tam was like a meditating
monk who wanted to deal with the subject directly, so that the students could
comprehend the meaning of the philosopher. It was important to him to present
the origin of ideas as Duc commented and also agreed. Life is fleeting, and no
one can predict the future. How could a teacher of philosophy cope with the
vicissitudes of life? A person who uses the pen is not prepared for toil with
the field hoe, but “when someone finds themselves in a difficult situation,
they must be prepared to adapt and overcome.” Perhaps it was due to fate.
Mr. Tam was a person with a profound knowledge of
philosophy, who eventually when considering the absurdity of life, became
despondent for the path he had led, so “everyday he silently carried his hoe to
the field for grass clearing, then silently departed this world.” Nobody
understood him and no one sympathized with him. Now his grave is covered with
green grass and I feel my heart breaking and my eyes filled with tears.
Ôi! Bé bỏng một tấm thân người.
Một chiếc thuyền nan bồng bềnh giữa hai bờ sống chết.
Có nỗi thương của Jesus, có nước mắt của Phật.
Và trên tay áo này,
Trên tay áo này
Những giọt đau!
Những giọt đau!
Của mẹ, của em của những bọt bèo số phận.
….
Trên một bến bờ vực thẳm.
Đời sao có những say đắm
Trong cõi lạnh hư vô?
Lưu Trọng Lư
(Đường ta đi thế đấy bạn lòng ơi!)
Oh, a little and tender body.
A bamboo boat swung between two riversides alive and
dead.
There is Jesus’ love and there are Buddha’s tears.
And on this sleeve,
On this sleeve
The drops of pain!
The drops of pain!
Of mother, of younger sister and foamy fates,
….
On the edge of an abyss
Why does life have infatuations
In the nihilistic coldness?
Luu Trong Lu
(Such in our way, hey sweetheart!)
About Mr. Truong Ngoc Hoi, his legacy is that he
left his students with a basic understanding of English poetry as well as the
prose of Mark Twain in “The Adventures of Tom Sawyer,” or of O. Henry in “The
Last Leaf,” and “The Gift of the Magi.” These novels and short stories helped
to express the humanity of the American people.
As for me, I exchanged letters with Duc when he sent
me his draft prior to publication. I checked my explanations when quoting the
proverb “Out of sight, out of mind,” and I also asked him, “Are you sure?” when
he quoted my explanations of the English texts to illustrate Mr. Tam’s
philosophical lessons. I also didn’t forget to thank Nguyen Le Van who paired
me with Mr. Gary Carkin to teach English to class 12C. This was an accidental
pairing without pre-planning, but it turned out to be an excellent partnership.
When Duc’s writing was mailed to me in Nha Trang, my youngest daughter e-mailed
the text to her sister in the United States. My daughter in the United States
knew that these papers had not been published in any magazine, so she had them
printed in the newspapers of the Vietnamese community where she lived. The
readers and my daughter’s friends praised Duc’s writing enthusiastically. Even
after 50 years, these students still remembered their teachers’ lessons, and
expressed their feelings and gratitude towards them, which is very rare. How
had the teachers of Nguyen Hoang High School taught in such a way to leave such
profound imprints in the students’ minds?
I really like Robert Frost, who was considered to be
one of the greatest American of the 20th century. He was invited to read poetry
during the inauguration of President John F. Kennedy in 1961, when Frost was 86
years old. This gesture proved, that despite the United States being
independent for 241 years, they still knew how to appreciate the value of
poetry, on a level equal to business or industry. I didn’t think that what I
had explained about Frost still remained in Duc’s memory. The fact that it did
remain in his memory showed that an action done, will never perish as
Longfellow wrote in his poem, “The Arrow and the Song.” When an arrow is shot
or a song is sung, it seems to be lost, but it still remains.
Long long afterward, in an oak
I found the arrow, still unbroken;
And the song, from beginning to end,
I found again in the heart of a friend.
Longfellow
Longfellow
Thank you all for having honored the former women
and men who have dedicated their lives to teaching. Duc affirmed the truth in
his writings with the quote, “you cannot make bricks without straw” That was
why Mrs. Nha asserted that Duc’s writing is Korean ginseng for living teachers,
and a heartfelt incense for teachers who have passed away.
I didn’t consider this a review of the reminiscences
reported from memory about the teachers’ lessons in the old days. I considered
it a work, because the writer had put to use his feelings to illustrate the
relationship between teachers, students and friends, as well as teaching and
learning that occurred at Nguyen Hoang High School in the past. This school
left an imprint in the minds of not just one, but many generations of students
in Quang Tri.
After reading this work and closing the book, I
heard an echo, the echo of a pebble falling and hitting the surface of the calm
well of my heart. I believe that the former teachers as well as the new ones,
and the current generation of students will acknowledge this same feeling when
they have the occasion to read this book.
…Suddenly, I felt my heart boisterous, and smiled to
have such a student.
Nha
Trang, October 30th, 2017
Hồ Sĩ Châm
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
POST HÌNH HOẶC VIDEO CLIP VÀO Ô COMMENT :
Các bạn chỉ việc copy link hình hoặc link video clip dán trực tiếp vào ô comment mà không cần dùng thẻ