Tác giả Nguyễn Quang Khiêm
LÀNG TÔI
Nằm về phía đông nam cách thị xã Quảng Trị 5Km bên
dòng sông Vĩnh Định: Là ngôi làng Ngô Xá thuộc xã Triệu Trung huyện Triệu Phong
SƠ LƯỢC VÀI NÉT TIỂU SỬ LÀNG
Sau đám cưới lịch sử của Huyền Trân Công Chúa với
vua Chiêm Thành là Chế Mân năm Bính Ngọ (1306) dãi đất 2 huyện Triệu Phong và
Hãi Lăng đã trở về Việt Nam, trong đó có miền đất làng Ngô Xá, mặc dầu đã thuộc
bản đồ Việt Nam mấy trăm năm nhưng vùng đất này vẫn còn là vùng đất rộng, người
thưa. Làng được hình thành vào cuối thế kỷ XV khi Mạc Đăng Dung tiếm quyền vua
Lê - các ngài ở làng Hoa Duệ thuộc Hoan Châu ( Nghệ Tĩnh ngày nay) phụng mệnh
vua Lê Cung Hoàng vào Thuận Hóa – Tân Bình đánh dẹp Chiêm Thành, chiêu mộ lưu
dân, khai khẩn ruộng hoang, thành lập Tổng xã ( theo di cảo của làng) năm 1537
đời vua Lê Thánh Tôn Niên hiệu Hồng Đức các ngài Thủy Tổ làng, theo tiến trình
đi mở đất, thiết lập thôn trang xưa có tên là làng Ngu Xá ( Ngu: quần tụ; Xá:
xã hay có nghĩa làng lớn, làng đại xã ). Năm 1670 đời vua Lê Huyền Tông ( niên
hiệu Cảnh Trị ) kiến tu Châu bộ tên làng được đổi là Phước Xá . Năm 1811 (đời
vua Gia Long năm thứ 10) Toản tu địa bộ toàn công (tu chỉnh lại sổ bộ địa chính
) do chữ Phước trùng tên với dòng họ vua Triều Nguyễn( theo luật của Triều đình
gọi là phạm húy) nên được đổi lại là Ngô Xá
Năm 1914 ( Đời vua Duy Tân Năm thứ 7) Triều đình ban
sắc chiếu cho các ngài Nguyễn Quang Đại Lang Chính Tiền khai khẩn, Hồ Đại Lang
Khai Khẩn, Hoàng Đại Lang khai khẩn- Năm 1925 ( Khải Định thứ 9 ) Vua ban sắc tặng
các ngài có công trạng Ngài Nguyễn Công Đặng Quốc Tướng Quân Đô Chỉ huy Ai Lao
Quân Tài Hầu , Ngài Cai Trị Phó Tướng Hoàng Trung Hầu , Ngài Chưởng nội Thái
giam Đốc Quận Công, Ngài Tham Nghi Hựu thừa chính nghị, các ngài Võ Lâm Dinh nội
cát chính sự triều Nguyễn, Các sắc tặng được bảo tồn và lưu lại hiện nay được
thờ tại nhà thờ họ Nguyễn Quang.
Vào thế kỷ thứ 19 , đạo Thiên Chúa được truyền vào
Việt Nam, một số dân họ Nguyễn Văn theo đạo Gia Tô lập nên nhà thờ Thiên Chúa
Giáo, năm 1967 ngôi nhà thờ bị chiến tranh tàn phá nặng nề chỉ còn lại tháp
chuông và hang đá, nay đã được trùng tu tọa lạc tại làng Ngô Xá Đông, Từ xưa đến
nay đã có cha xứ tổ chức Thánh Lễ cầu nguyện cho giáo dân trong vùng, trong
khuôn viên nhà thờ xưa có ngôi nhà phúc là lớp vỡ lòng đầu tiên của bao thế hệ
học trò trong làng.
Là một ngôi làng Việt có từ rất sớm ở Miền Trung Việt
Nam cách đây 500 năm, lúc đầu đến đây dân cư của làng sống bằng nghề nông lam
lũ, bằng ruộng vườn khoai sắn nên từ đó có câu: Vừa đi vừa đấy, lấy vợ Ngô Xá /
cái áo thước hai/ cái quần mũ khoai bốn mùa. Dần dần chợ làng được hình thành
và cũng mang tên của làng có vị trí thuận lợi: trên bến dưới đò, Nhất cận thị,
nhị cận giang, tam cận lộ, làng có đủ 3 yếu tố phong lưu thu hút nhiều thương
nhân tụ về ngụ cư buôn bán (Xóm chợ) và cũng từ đó làng có thêm một tên phụ nữa
: Ngô Xá Chợ đã góp một phần lớn vào sự phát triển kinh tế của làng.
VĂN HÓA LÀNG:
Vào thời kỳ đầu mới lập làng, tuy cuộc sống có nhiều
khó khăn cực nhọc nhưng dân làng đã cùng nhau đóng góp chung sức chung lòng xây
dựng đình làng. Để con dân trong làng được bình tâm yên ổn, các ngài xưa đã giữ
lại một dãi cây rừng nguyên sinh về hướng bắc đình ( đa số là cây mã, cây bời lời,
cây thị…) giáp với làng Thanh Lê có đắp một con đập gọi là đập dài để che chắn
gió bắc ( gió lạnh ) nay con đập ấy không còn nữa. Trước mặt đình làng hướng
Nam lấy Sông Vĩnh Định làm án, đập dài nằm ngoài, đập cụt nằm trong làm hậu chẩm
tạo nên thế quần tụ, uy nghi. Năm 1670 xây chùa lập miếu để thờ thần, Năm 1811
tái lâp đình chùa và xây lăng thờ các ngài có công khai khẩn, được sắc vua ban.
Năm 1888, đình làng và các di tích lịch sử được trùng tu, Năm 1961 ( Tân Sửu )
trùng tu đình làng lần nữa ,lần trùng tu sữa chũa đình làng gần đây được khởi
công vào ngày 10/7/2010 ( 29.6 Canh Dần) và hoàn tất khánh thành ngày
09-10/5/2011 ( 07-08/4/Tân Mão) theo nguyên bản củ 4 mái 5 gian, phần Miếu thờ
Ngài Dương Cảnh Thần Hoàng Duệ Đạt Đại Vương, căn chính diện thờ: Chư Thần Hội
Diện, căn Tả thờ: Thiên Khai Tiền Hậu Thánh Thánh Vật Tiên Sư, Căn Hữu thờ : Thổ
Công Táo Quân. Hiện nay 2 làng Tây, Đông đều có lập đình, chùa riêng.
Ngôi chùa Ngô Xá được xây dựng năm 1812 (Đời vua Gia
Long năm thứ 11) được thiết kế thờ Tiền Chánh diện Ba vị Tam Bảo, cấp hạ chánh
điện thờ Ngọc Hoàng Thượng Đế, Tả Nam Tào Hữu Bắc Đẩu, gian tả thờ Quan Thánh
Quan Châu, gian hữu thờ: Ngài Lương Võ Đế, Ngài Chí Công Sư, tiền điện thờ Ngài
Hộ Pháp, hậu điện thờ: Chư Vị Thỉ Tổ, Tiên Tổ, Tứ Thân Phụ Mẫu, Thất Thế Phụ Mẫu,
Lục Thân Quyến Thuộc. Lúc đó có Thầy Trụ Trì Thích Thiện Nhân được sự chứng
minh thọ giới vị Hòa Thượng Hãi Đức đặt tên chùa là Phước Xá Tự, thêm nhiều lần
Chư Vị Sắc Tứ Quảng Trị Đạo Quang Hoằng Dương Đạo Pháp cho tín đồ trong vùng.
Năm Vua Đồng Khánh Thứ 3 tín đồ Phật Tử và nhân dân đã đóng góp trùng tu lại
ngôi chùa bằng chùa vuông, thờ tự như cũ, Thầy Trụ Trì Thích Chánh Thuật, giáo
hữu được thọ giới quy y vị Hòa Thượng Thích Giác Diên. Năm 1945 ( Bảo Đại thứ
20 ) ngôi chùa bị tàn phá do chiến tranh chống Pháp. Năm 1961 ( thời Ngô Đình
Diệm) dân làng đóng góp xây dựng lại ngôi chùa Tiền chính diện thờ: Ngài Bổn
Sư, bên tả thờ Ngài Quan Thế Âm, bên hữu thờ Ngài Địa Tạng, mái hậu thờ Chư gia
Thỉ Tổ, Tiền Đường thờ Hai Ngài Hộ Pháp Tiêu Diện.. Lần trùng tu gần đây vào
năm 2003 ( Quý Mùi ) Sư Cô Thích Nữ Từ Tâm được Tỉnh Giáo hội Quảng Trị bổ nhiệm
Trụ Trì. Giữa khuôn viên đình và chùa có miếu thờ ngài Khai khẩn xây năm 1888
và đền âm hồn lộ thiên, dân làng có hội Xuân Thu nhị kỳ. Ngày 17.2 âm lịch hàng
năm húy kỵ ngài khai khẩn, dân làng đi tảo mộ, ngày 09.10 tháng Tư âm lịch hàng
năm dân làng tổ chức giổ Ngài Quốc Tướng Quân Đô Chỉ Huy Ai Lao Quan Tài Hầu (
tương đương cấp Tướng tư lệnh ngày nay ) tại Miếu Ông và lễ cầu an tại đình
làng, năm nào lễ lớn thì có vật bò tế lễ tại đình, miếu ông và đền ngài khai khẩn,
làng lo con heo, xôi, bánh trái, hương hoa, trầm trà, vàng bạc, giấy tiền…lễ tế
đều có trống chiêng đánh thổi. Truyền thống văn hóa ấy được dân làng lưu truyền
đến ngày nay. Hằng năm việc làng, việc họ đều theo sự phân công của biện làng,
biện họ, dân tráng trong làng thay phiên nhau mà gánh vác không suy bì tỵ nạnh,
ganh đua hơn thiệt, Ngày lễ tảo mộ hàng năm vào 16-17 tháng 2 al bô lão, trưởng
tộc tập trung tại đình theo lệnh làng ( 3 hồi 9 tiếng thanh la) đi tảo mộ làng,
mộ loạn ( mộ vô tự).Các họ con cháu nội ngoại tập trung tại nhà thờ họ theo lệnh
họ ( 3 hồi trống) đi tảo mộ ngài đầu họ rồi đến phái, chi, gia đình…Hương ước
xưa của làng nay vẫn còn nguyên giá trị: khuyến khích đạo học lễ nghĩa, thờ
cúng tổ tiên, ông bà, tri ân các bậc tiền nhân, tiên liệt, anh hùng liệt sĩ vị
quốc vong thân. Đến ngày húy kỵ các bậc tiền nhân, khai khẩn, biện làng phân
công theo dân đinh làm cộ ( mâm xôi ) dâng tế. Trước đây, dưới thời phong kiến
đến thời cận kim làng có lệ khi gia đình có con lớn xuất riêng thì làm mâm cau,
trầu, rượu trình làng để xin thổ cư dựng nhà, sau khi làng trưởng thông qua, được
dân làng chấp thuận thì được cấp 1 sào tục ( 1000 m2) thổ cư và vườn ( lệ này
nay không còn) , Hương ước xưa được lưu truyền trong tiềm thức của con dân làng
và truyền khẩu từ thế hệ này sang thế hệ khác, không kể sang hèn, giàu nghèo dù
quan to chức lớn hay dân ba hạng khi về dự hội làng đều phải khăn đóng áo dài,
kính nhường các bậc cao niên, có tôn ti trật tự, hệ thống gia đình từ xưa của
làng được tính 10 thế hệ: Vãi, cố, ông nội, cha , tôi , con, cháu, chắt, chiu,
chút… do đó có câu: Mười đời chưa rời cánh tay Cho đến bây giờ truyền thống gia
đình vẫn thích sống “ Đại gia đình” với 3,4 thế hệ trong cùng một hộ ( tam, tứ
đại đồng đường ) quan hệ huyết thống trong gia tộc có tôn ti trật tự từ trên xuống
dưới (nước mắt chảy xuống) “ có trên có dưới” “Có lớn có nhỏ “Có già có trẻ”,
hệ tôn ty trực tiếp, gián tiếp đều được coi trọng. Các ngài cao hơn vãi được thờ
tại nhà thờ họ, các ngài cố được thờ nhà thờ phái đến nhà chi, từ đường tư
gia… cho đến ngày nay quan hệ huyết thống của làng vẫn được tính trong phạm vi một
họ (trai gái cùng họ không được lấy nhau) Trong đạo anh em dòng tộc phải phục
tùng gia trưởng (Trưởng Tộc, Trưởng phái, Trưởng chi, Trưởng Nam, Trưởng Nữ…)
Đạo hiếu làm người là mối đầu của đạo đức, bất cứ ai theo tôn giáo nào, nhờ có
tôn ti trật tự như vậy mà mọi người đối xử với nhau trên thuận dười hòa, trên
nhường dưới nhịn, Từ khi lập làng đến nay đã có 24 thế hệ sinh ra vẫn an cư lạc
nghiệp, không có cạnh tranh, tất cả đều cầu mong cho dân làng bình yên vô sự, từ
xưa đã có câu rất nặng tình đoàn kết như : “ Sọm người hơn sọm của” , mọi mâu
thuẫn giữa dân làng thì trình làng giải quyết, người không chấp hành hương ước
thì bị phạt 1 mâm cau trầu rượu vạ làng, dân trong họ nếu có hiềm khích bất bằng
thì trình họ giải quyết, Trưởng họ họp hội đồng gia tộc và các bô lão họ phái để
tự xữ với nhau không kiện cáo đến chính quyền. Con dân họ vi phạm đều bị phạt vạ
mâm cau trầu rượu (Thiết nghĩ cách hòa giải này ông cha đã làm từ lâu để giáo
dục trật tự gia đình, dòng họ, hương thôn cũng là điều hay rất đáng trân trọng
và duy trì nhưng lệ này ngày nay đã bị bỏ quên nhiều, mọi việc đều do xã hội giải
quyết).
Làng Ngô xá đươc coi là trung tâm văn hóa chính trị
của xã Triệu Trung do có sự giao thông thuận tiện, con đường 68 chạy qua làng
song song với sông Vĩnh Định, Trụ sở chính quyền xã, trường học, trạm xá, đều
năm trên địa bàn của làng. Ngày nay con em trong làng được học hành đỗ đạt khá
đông, Làng có nhiều học vị Tiến sĩ, Phó Tiến sĩ, giáo sư, sau đại học… Ngày xưa
làng có miếu thờ ông Nghè (người đậu Tiến sĩ ngày xưa của làng) tại Hồ Sen, truyền thống hiếu học được duy trì đến nay, trong thi ca thời tiền chiến tên
làng đã có trong các bài hát như : Bình Trị Thiên khói lữa, Cô hàng nước.v…v.
Làng Ngô Xá Tây có 3 cái giếng đất cổ sâu khoảng 15-20 mét rộng khoảng 20 mét,
các giếng có từ lúc nào chưa ai biết, Ngày xưa dân làng ăn uống, tắm giặt chủ yếu
lấy nước sông Vĩnh Định, còn 3 cái giếng nằm thẳng hàng: 1 ở voòng thượng (ngoài khu dân cư) 1 cái xóm trong và 1 cái xóm trên, hàng năm vào mùa hè nước
cạn giếng xóm nào thì tập trung dân xóm nạo vét, bắt cá, bắt lươn vui như ngày
hội. Theo các cụ xưa kể lại đây là vùng đất phát quan, phát tướng nên các thầy
địa Tàu cho đào giếng để yểm long mạch không cho phát, Năm 1966 tai địa phương
có dự án xây giếng lấy nước sạch nhưng đa số đều bị phèn không dùng được, giếng
xóm ngoài cũng được xây vào thời kỳ này, trước ngã tư miếu xóm: đây là nơi tập
trung của trẻ con trong làng vào những trưa hè nóng bức (hồi đó có quan niệm
không làm được giếng này thì trong làng sẽ bị hỏa hoạn, sau khi làm xong giếng
bỏ không dùng được nên ông thôn trưởng Nguyễn Quang Thu có đề bài thơ Thất ngôn
tứ tuyệt như sau:
“Công đức tiền nhân tựa bể đông
Vun quén tô bồi há uổng công
Đạo đời gìn giữ sao cho trọn
Đẹp đẽ tìm ra nước giữa dòng”
Bài thơ này lớp trẻ trong làng hồi đó ai cũng thuộc
cả..
Ngày nay con dân làng Ngô Xá đi làm ăn sinh sống khắp
nơi trong và ngoài nước nhưng đều mang một truyền thống đặc trưng “ ly hương bất
ly tổ” đã ăn sâu vào mạch sống của con dân làng, hiện nay ở miền Nam có 03 hội
đồng hương của làng Ngô xá: Hội đồng hương làng Ngô xá đông ở Cù Bị và Bầu Lâm,
hội đồng hương của làng Ngô Xá Tây ở Ngãi Giao, Châu Đức BRVT, hàng năm cứ đến
ngày 10-11 tháng tư Âlịch các hội đồng hương đều tổ chức tế lễ truyền thống để
tưởng nhớ công đức tổ tiên ông bà, đây là dịp tụ họp những con dân xa xứ của
làng tại Miền Nam vừa thắt chặt tinh thần đoàn kết, tương trợ, khi dân làng có
người đau ốm, qua đời hội đều có tổ chức thăm viếng, động viên duy trì tình
làng nghĩa xóm , truyền thống quý báu của dân làng có từ xưa.
VỀ ẨM THỰC:
Nằm ở vị trí giao thông thuận tiện, ngư dân đánh cá
thuộc xã Triệu Lăng, Gia Đẳng, Phương Lang, Chợ Cạn muốn đem hải sản lên thị xã
đều đi qua trục lộ 68, từng đoàn rổi gánh cá chạy bộ cho kịp chợ ( hồi đó thường
tập trung tại cây số 5 mới có xe lôi lên tỉnh) dân làng chỉ ra đầu ngỏ là có thể
đón mua đủ loại hải sản của biển Đông quê hương , Bàu làng, đồng ruộng, hói
sông Mới và dòng Vĩnh Định là kho chứa nhiều tôm, cá, lươn, ếch nguồn thực phẩm
dồi dào cho dân làng qua bao đời, khi mùa lụt về người ta hân hoan đi cất rớ,
giăng lưới, khi nước rút thì rũ nhau từng đoàn người đi chơm, đi rập bắt được
nhiệu cá gáy, cá mương, cá lúi đầy trứng, đến tháng 10 âl thì cất tủ bắt cá nố,
cái ăn, cái bán, cái làm mắm, cái phơi khô. Mắm cua đồng hay mắm đam kho lên với
ớt cay mà chắm với đọt khoai lang thì ngon đáo để, nồi canh hến nấu với mít non
thêm chút lá lốt thơm phức sau buổi trưa hè đi làm ngoài ruộng về khó ai quên
được hay nồi canh mướp ngọt mẹ mực nấu mực ống là những món đặc sản mà dân làng
dù đi đâu đều không quên những hương vị của quê nhà…( Ngày nay sông Vĩnh Định
đã chặn lại ở Ba Bến, nguồn phù sa và lượng tôm cá hàng năm không về nữa, dòng
sông hiền hòa, trong mát chỉ còn lại trong ký ức nhường chổ cho dòng chảy của
kênh cấp 1, cấp 2 công trình Đại thủy nông Nam Thạch Hản tưới cho cánh đồng 2
huyện Triêu Phong và Hải Lăng ), cánh đồng đất khô xóm đồng, Bầu Quân, Khe
Trâu, Bến Huyện mang lại nhiều lương thực, thực phẩm cho dân làng như: Bắp
khoai, sắn, đậu mè, dưa hấu, mía , thuốc lá… là những nguồn thu đáng kể ( hiện
nay diện tích trồng màu của làng bị thu hẹp do hoán đổi với đất làng Văn Vận,
các công trình trường học, đất trung du thì đã ngập trong lòng hồ Đập Trấm ).Từ
xưa đến nay đa số dân làng sống bằng nghề làm ruộng, thường những ruộng tốt gọi
là nhứt đẳng như: Đạc Bàu, Đạc Cựa, Đạc Rôộc để dành trồng nếp, có hai loại nếp
bầu và nếp thơm, nếp bầu là giống nếp địa phương rất thơm và rất dẽo là đặc sản
để gói bánh tét, bánh chưng hoặc nấu xôi cộ cúng tổ tiên ông bà trong những
ngày tết, giỗ, còn nếp lai cây thấp năng suất cao nhưng nếu chín chưa kịp gặt
mà gặp mưa thì mọc mộng trên cây. Hàng năm dù nhà khó khăn nhất cũng phải chừa
ít lắm là một thúng tư (15 Kg) để gói bánh, nấu xôi cúng ông bà đầu năm hay
khi có kỵ giỗ, cứ vào khoảng 26, 27 âl tháng chạp nhà nhà đều rục rịch rọc lá
chuối để gói bánh tét, cả nhà thường có thú quây quần bên bếp lửa hồng của nồi
bánh để kịp cúng giao thừa, đầu năm…
CẢM XÚC NGÀY TRỞ LẠI
Gần 30 năm , trở lại thăm làng , tóc đã bạc một phần
nhưng tình quê hương thì vẫn xanh như củ, với con đường, bến nước, dòng sông và
cánh đồng thân quen, người làng quê chơn chất, mộc mạc, đã quen chịu đựng giá
rét của đêm đông, cái nóng bức của ngày hè và gió Lào rát mặt… Làng ! cái tổ ấm,
nơi đoàn tụ, nơi đậu lại, nơi cư trú của cha ông người Việt Nam ta có từ ngàn
xưa, nơi in sâu đậm tình người, tình đất với nắng, mưa, sương, gió, mùa màng đã
in đậm trong tâm thức con dân của làng “Đá trôi nhưng làng không trôi”. Trong
cuộc sống về đói no , lẽ sinh tồn khắc khoải, nghĩa trời cao đất rộng, mỗi thửa
ruộng, góc vườn, ao chuôm, tăm cá, bến nước, dòng sông đều se sắt lòng người.
Những người con xa xứ, khi về đến đầu làng ai trong
chúng ta cũng động lòng trắc ẩn, ai cũng thấy bâng khuâng xao xuyến như sống lại
những thời khắc của tuổi ấu thơ .Nhớ những ngày xưa với cảnh sắc bình dị của
làng quê khi mùa đông về mang gió lạnh thổi qua mái tranh nghèo lụp xụp, những
cảm giác đói lạnh, bữa cơm tối chan mắm đam mộc mạc sao ngon quá ! chợt nhớ, chợt
thèm những bước chân lang thang khi chiều về trên con đường làng sau một ngày
chăn trâu, cắt cỏ, bắt cá , bắt cua , bao nhiêu năm vẫn nặng lòng với nổi buồn
chia xa, da diết, mong chờ ngày trở lại thăm quê hương tổ ấm, nơi ông cha đã
bao đời xây dựng.
Khi tết đến xuân về người xa quê không khỏi nao lòng
nhớ cái lạnh nồng ấm tình người nơi quê nhà để được quây quần bên gia đình
trong những ngày tết quê hương, không có gì thay thế được cái tình thân, quê
hương và làng xóm….
Mùa đông ngày về lại mẹ đã ra đi !
Qua bao thăng trầm của lịch sử, cuộc sống và cảnh vật
của làng bây giờ đã hoàn toàn thay đổi, nhà cửa được xây dựng khang trang kiên
cố, thay cho những mái tranh nghèo khi xưa, đường làng ngõ xóm được bê tông hóa
sạch đẹp, văn minh, đình chùa miếu vũ , cơ quan, trường học được trùng tu xây mới,
bên đồng ruộng ấy, bên dòng sông ấy và bên con đường ấy đang vun đắp từng ngày
cho cuộc sống trên mảnh đất làng Ngô xá trăm mến nghìn thương… những gốc cội
xưa, những lũy tre làng đã che chở cho dân làng bền bỉ như đất đai nuôi dưỡng
cuộc sống của dân làng
(Bà Rịa Vũng Tàu, Quý Đông Canh Dần 2010)
Kẻ tha hương Nguyễn Quang Khiêm
Chùa nói trên là Chùa Ngô Xá Đông hay Ngô Xá Tây vậy?
Trả lờiXóa