La Thụy
NHỮNG DẠNG THƠ VIỆT NAM ĐẶC BIỆT PHẦN II :
THƠ ĐỌC NHIỀU CÁCH, THƠ VIỆT ĐỆM NGOẠI NGỮ
Ngoài DẠNG THƠ BÌNH THANH đã đăng :
a/ http://www.art2all.net/tho/lathuy/dangthobinhthanh.htm
b/ http://phudoanlagi.blogspot.com/2011/09/dang-tho-binh-thanh_21.html
Sau đây, mời các bạn đọc một số dạng thơ đặc biệt khác.
I - THƠ ĐỌC NHIỀU CÁCH
1. Đọc theo 2 cách:
ĐỀ TRANH MỸ NỮ
(Thuận nghịch độc)
Đọc xuôi:
Hương tiên gác vắng nhặt ca oanh
Bận mối sầu khêu gượng khúc tranh
Sương đỉnh trướng gieo từng dục mộng,
Nguyệt bên rèm tỏ dễ si tình.
Vàng thưa thớt cúc tan hơi dạm,
Lục phất phơ sen đọ rạng thanh
Trang điểm ngại chăm dừng trục gấm
Phòng tiêu lạnh lẽo khoá xuân xanh.
Đọc ngược (theo âm Hán Việt):
Thanh xuân toả liễu lãnh tiêu phòng
Cẩm trục đình châm ngại điểm trang.
Thanh rạng độ liên phi phất lục,
Đạm hi tan cúc thát sơ hoàng.
Tình si dị tố liêm biên nguyệt,
Mộng xúc tằng liêu trướng đỉnh sương.
Tranh khúc cưỡng khiêu sầu mỗi bận,
Oanh ca nhật vĩnh các tiên hương
PHẠM THÁI
2. Đọc theo 6 cách:
CỬA SỔ ĐÊM KHUYA
Hoa cười nguyệt rọi cửa lồng gương
Lạ cảnh thêm buồn nợ vấn vương
Tha thiết liễu in hồ gợn bóng
Hững hờ mai thoáng gió đưa hương
Xa người nhớ cảnh tình lai láng
Vắng bạn ngâm thơ rượu bẽ bàng
Qua lại yến ngàn dâu ủ lá
Hòa đàn sẵn có dế bên tường
HÀN MẶC TỬ
Cách đọc 1: Đọc xuôi
Cách đọc 2 : Đọc ngược
Cách đọc 3 : Bỏ 2 chữ đầu ở mỗi câu đọc xuôi
Cách đọc 4: Bỏ 2 chữ sau ở mỗi câu đọc xuôi
Cách đọc 5 : Bỏ 2 chữ đầu ở mỗi câu đọc ngược
Cách đọc 6 : Bỏ 2 chữ sau ở mỗi câu đọc ngược
3. Đọc theo 8 cách:
CẢNH XUÂN
Ta mến cảnh xuân ánh sáng ngời
Thú vui thơ rượu chén đầy vơi
Hoa cài dậu trúc cành xanh biếc
Lá quyện hương xuân sắc thắm tươi
Qua lại khách chờ sông lặng sóng
Ngược xuôi thuyền đợi bến đông người
Xa ngân tiếng hát , đàn trầm bổng
Tha thướt bóng ai mắt mỉm cười
KHUYẾT DANH
Cách đọc 1: Đọc xuôi
Cách đọc 2: Đọc ngược
Cách đọc 3: Bỏ 2 chữ đầu ở mỗi câu, đọc xuôi
Cách đọc 4: Bỏ 2 chữ cuối ở mỗi câu, đọc ngược
Cách đọc 5: Bỏ 3 chữ đầu ở mỗi câu, đọc xuôi
Cách đọc 6: Bỏ 3 chữ cuối ở mỗi câu, đọc ngược
Cách đọc 7: Bỏ 4 chữ đầu ở mỗi câu, đọc xuôi
Cách đọc 8: Bỏ 4 chữ cuối ở mỗi câu, đọc ngược
4. Đọc theo 10 cách :
Đó là bài thơ LỆ CÁT ĐẰNG của Nhật Hồng Nguyễn Thanh Vân
1.- Đọc xuôi:
Trăng buồn khóc liễu rũ tàn thu,
Giá lạnh trời sương gió mịt mù.
Cằn cỗi sắc hương mùi nhạt tẻ,
Võ vàng son phấn nét mờ lu.
Băng thanh lỡ phận vùi hoa gấm,
Ngọc khiết thương đời thẹn tóc tơ.
Đằng cát lệ rơi tình rẽ lối.
Giăng sầu chuốc hận tủi hờn thơ
2.- Đọc ngược:
Thơ hờn tủi hận chuốc sầu giăng,
Lối rẽ tình rơi lệ cát đằng.
Tơ tóc thẹn đời thương khiết ngọc,
Gấm hoa vùi phận lỡ thanh băng.
Lu mờ nét phấn son vàng võ,
Tẻ nhạt mùi hương sắc cỗi cằn.
Mù mịt gió sương trời lạnh giá,
Thu tàn rũ liễu khóc buồn trăng.
3.- Bỏ 2 chữ đầu mỗi câu bài xuôi:
Khóc liễu rũ tàn thu,
Trời sương gió mịt mù.
Sắc hương mùi nhạt tẻ,
Son phấn nét mờ lu.
Lỡ phận vùi hoa gấm,
Thương đời thẹn tóc tơ.
Lệ rơi tình rẽ lối,
Chuốc hận tủi hờn thơ.
4.- Bỏ 2 chữ đầu mỗi câu bài ngược:
Tủi hận chuốc sầu giăng,
Tình rơi lệ cát đằng.
Thẹn đời thương khiết ngọc,
Vùi phận lỡ thanh băng.
Nét phấn son vàng võ,
Mùi hương sắc cỗi cằn.
Gió sương trời lạnh giá,
Rũ liễu khóc buồn trăng.
5.- Bỏ 3 chữ đầu mỗi câu bài xuôi:
Liễu rũ tàn thu,
Sương gió mịt mù.
Hương mùi nhạt tẻ,
Phấn nét mờ lu.
Phận vùi hoa gấm,
Đời thẹn tóc tơ.
Rơi tình rẽ lối,
Hận tủi hờn thơ.
6.- Bỏ 3 chữ đầu mỗi câu bài ngược:
Hận chuốc sầu giăng,
Rơi lệ cát đằng.
Đời thương khiết ngọc,
Phận lỡ thanh băng.
Phấn son vàng võ,
Hương sắc cỗi cằn.
Sương trời lạnh giá,
Liễu khóc buồn trăng.
7.- Bỏ 3 chữ cuối mỗi câu bài xuôi:
Trăng buồn khóc liễu,
Giá lạnh trời sương.
Cằn cỗi sắc hương,
Võ vàng son phấn.
Băng thanh lỡ phận,
Ngọc khiết thương đời.
Đằng cát lệ rơi,
Giăng sầu chuốc hận.
8.- Bỏ 3 chữ cuối mỗi câu bài ngược:
Thơ hờn tủi hận,
Lối rẽ tình rơi.
Tơ tóc thẹn đời,
Gấm hoa vùi phận.
Lu mờ nét phấn,
Tẻ nhạt mùi hương.
Mù mịt gió sương,
Thu tàn rũ liễu.
9.- Đọc như thơ tự do bài xuôi:
Trăng buồn…
Khóc liễu…
Rũ tàn thu…
Giá lạnh…
Trời sương…
Gió mịt mù…
Cằn cỗi…
Sắc hương…
Mùi nhạt tẻ…
Võ vàng…
Son phấn…
Nét mờ lu…
Băng thanh…
Lỡ phận…
Vùi hoa gấm…
Ngọc khiết…
Thương đời…
Thẹn tóc tơ…
Đằng cát…
Lệ rơi…
Tình rẽ lối…
Giăng sầu…
Chuốc hận…
Tủi hờn thơ…
10.- Đọc như thơ tự do bài ngược:
Thơ hờn…
Tủi hận..
Chuốc sầu giăng…
Lối rẽ…
Tình rơi…
Lệ cát đằng…
Tơ tóc…
Thẹn đời…
Thương khiết ngọc…
Gấm hoa…
Vùi phận…
Lỡ thanh băng…
Lu mờ…
Nét phấn…
Son vàng võ…
Tẻ nhạt…
Mùi hương…
Sắc cỗi cằn…
Mù mịt..
Gió sương…
Trời lạnh giá…
Thu tàn…
Rũ liễu…
Khóc buồn trăng…
II. THƠ VIỆT ĐỆM NGOẠI NGỮ
Người VN có tài "thi hoá" bài học ngoại ngữ. Thời xưa đã có người “nôm hoá” chữ Hán để học trò học dễ thuộc, một dạng như tam thiên tự kinh rất đặc thù VN, chẳng hạn :
"Thiên: trời, địa: đất
Cử: cất, tồn: còn
Tử : con, tôn: cháu
Lục: sáu, tam: ba
Gia: nhà, quốc: nước
Tiền: trước, hậu: sau
Ngưu: trâu, mã: ngựa...”
Tới thời học Pháp ngữ, cũng được Việt hoá để dễ nhớ, dễ thuộc, chẳng hạn :
“Bớp: bò, sư tử: li-ông
Sơ - van: con ngựa, me - dông: cái nhà
Ma - pham chính thật bà nhà
Mông - xơ đích thị chỉ là thưa ông”
Anh Nguyễn Văn Quang (cựu học sinh Trung học Nguyễn Hoàng 1960-1967) có phổ biến cách học Pháp văn (trích trong cuốn “Trường NH chân dung và Kỷ niệm I ” do Võ Thị Quỳnh chủ biên ) nghe thật ngộ nghĩnh :
“ma soeur: chị tôi, mou: mềm, long: dài ”
Và đây bài học Anh ngữ bằng thơ rất dễ thuộc :
Long: dài, short: ngắn, tall: cao
Here: đây, there: đó, which: nào, where: đâu
Sentence có nghĩa là câu
Lesson: bài học, rainbow: cầu vồng
Husband là đức ông chồng
Daddy: cha bố, please don’t: xin đừng
Darling tiếng gọi em cưng
Merry: vui thích, cái sừng là horn
“Rách” rồi xài đỡ chữ “torn”
“To sing” là “hát”, a song: một bài
Nói sai sự thật: to lie
Go: đi, come: đến, “một vài” là “some”
…
Có giai thoại được truyền tụng rằng:
Vua Tự Đức – vị vua giỏi văn thơ triều Nguyễn, một hôm khi lâm triều, trước bách quan ngài hí hửng cho biết tối qua được thần mộng báo hai câu thơ hay và lạ, thơ Hán nhưng có chen lẫn từ Nôm:
“Viên trung oanh truyện khề khà ngữ
Dã ngoại đào hoa lấm tấm khai”
Cao Bá Quát tâu rằng:
“Hai câu thơ trên có trong một bài thơ do thần làm hồi còn nhỏ”.
Ông liền đọc một mạch bài thơ:
“Bảo mã tây phương huếch hoác lai,
Huênh hoang nhân tự thác đề hồi.
Viên trung oanh chuyện khề khà ngữ,
Dã ngoại đào hoa lấm tấm khai.
Xuân nhật bất văn sương lộp bộp,
Thu thiên chỉ kiến vũ bài nhài.
Khù khờ thi tứ đa nhân thức,
Khệnh khạng tương lai vấn tú tài”.
CAO BÁ QUÁT
Tú Xương nhà thơ «xuất khẩu thành thi» chỉ với hai câu thơ thôi mà nói được ba thứ tiếng Hán,Việt, Pháp :
«Cống hỉ», «mẹc – xì», đây thuộc cả
Chẳng sang Tàu, tớ cũng sang Tây
( TÚ XƯƠNG)
Ghi chú :
Cống hỉ: cung hỉ 恭喜 = chúc mừng
Mẹc-xì: merci = cám ơn
*MỘT SỐ BÀI THƠ VIỆT CHEN NGOẠI NGỮ
GÁI QUÊ
Trèo lên mười bậc đít mông - tê (monter = trèo)
Tiên cùng không rượu, chẳng cà - phê (fée = tiên)
Chín lầu cửa khoá, lo nơm nớp (neuf = chín)
Nằm tính thâu đêm chuyện cút – sê (coucher = nằm)
Nguyễn Thanh Nhung
PHÚT CHIA LY
Nói mãi nàng vẫn đi (dit = nói)
Sét đánh rền một phút (foudre = sét)
Giường ngập lệ chia ly (lit = giường)
Tràn sâu vào nửa mét (mettre = tràn ngập)
Kiều Phong
GIŨ LỤA
Tay nâng dải lụa mong manh (main = tay)
Gái quê mà lại như hình cung phi (fille = gái)
Đời còn bao nỗi vân vi (vie = đời)
Làm sao trả nổi những gì ta vay (travail = làm)
Võ Viết Quân
HOA TƯƠNG TƯ
Yêu em , cũng biết được em mê (aimmer = yêu)
Câm nín chi cho dạ tái tê (taire = câm)
Hồ mộng đôi phen tha thiết lắc (lac = hồ)
Tiên bồng một cõi thảnh thơi phê (fée = tiên)
Đường mây chưa phỉ can chi rút ( route = đường)
Mũi sóng cao đành quá chấp nê (nez = mũi)
Đò đến cầu lam mong được bắc (bac =đò)
Tương tư hoài một đoá « păng- sê» (pensée = tương tư)
Thân Trọng Thuỳ Như
(Quận 3 – TP HCM)
CỨ MƠ
Tôi thức sao mà tôi cứ mơ (me = tôi)
Lửa tình âm ỉ cháy lơ phơ (feu = lửa)
Bốn phương ngóng bóng trời mù cát (quatre = bốn)
Hai ngựa đưa tin vô cùng đơ (deux =hai)
Đầu bạc lại xanh màu lễ tết (tête = đầu)
Tim hồng thêm thắm nhịp thời cơ (coeur =tim)
Cả toà thiên phú mà nuy tú (tout = tất cả)
Cầu ước chuyện kia chẳng vẩn vơ (voeux = cầu ước)
Võ Viết Doãn
Bài thơ nói lên tâm sự một phụ nữ VN lấy chồng là một viên công sứ Pháp mãn nhiệm trở về nước
J’ écris (tôi viết) tình thư une lettre (một lá)
Envoie (gửi) thăm hỏi me-sừ Le Résident (ông công sứ)
Toute seul (một mình) gạt nước mắt than rằng :
Cochon (con lợn) long đong lỡ làng,
Từ khi thiếp bén duyên chàng
La noce (đám cưới) chưa đặng một bàn tiệc vui
Éloigner (xa cách) ai khéo dục xui
Couteau (con dao) sao nỡ cắt mùi nguyệt hoa
La cour (sân nhà) mousse (cỏ) mọc lune (trăng) tà
La chambre (buồng ngủ) biết lấy ai làm ami (bạn)
Lạnh lùng chiếc chemise (áo) lấp ló,
Ta figure (khuôn mặt anh) thấy đó mà mong
Bây giờ tình biết comment (làm sao) bây giờ
Pourqoi (tại sao) nỡ để silent (im lặng) cho đành
(Ông Đinh Hương Sơn sưu tầm và đăng trên tạp chí "Xưa và Nay"số 257 (Tháng 4/1946)
ĐÒI LẠI NHÀ TỰ BỊ NGƯỜI Ở NHỜ CHIẾM
Nhà moa bị cướp (moi = tôi)
Nhà moa cho ở, luý tăng-pi (lui =anh ta ; tant pis = cóc cần)
Cướp của mà không tiếng mẹc-xì (merci = cám ơn)
Mặc kệ moa kêu vang pạc- tú (partout = khắp nơi)
Ung dung luý vẫn sống i-xi (ici = ở đây)
Ái tình nhân nghĩa nơ vô riêng (ne vaut rien = không có giá trị gì)
Móc ngoặc ô dù xà súp phi (cà suffi = đã đủ rồi)
Nên đành chịu lép tút la vi (tout la vie = suốt cả đời)
Chỉ tội lơ duýt quên tat-chơ
(le judge =quan toà; tâche = trách nhiệm)
Giáo sư Dương Thiệu Tống
( Do mình dùng chương trình bàn phím tiếng Việt Unikey, một số mẫu tự tiếng Pháp không có trong Unikey nên gõ không được chuẩn lắm )
MỘT THẾ - KỶ MẤY VẦN THƠ
*Tiễn chân quân viễn chinh Pháp
*Kỷ niệm 100 năm Việt Nam đau khổ
Ánh hồng chói rạng chân trời mới
Ngọn lửa đao binh tắt lịm rồi.
Có kẻ chiều nay về cố quán,
Âm thầm, không biết hận hay vui ?!
Chiều nay,
Kèn kêu tức tưởi nghẹn lời
Tiếng ngân xúc động dạ người viễn chinh !
Chiều nay trên nghĩa địa
Có một đoàn tinh binh
Cờ rủ và súng xếp
Cúi đầu và lặng thinh.
Nghẹn ngào giã biệt người thiên cổ
Đất lạ trời xa sớm bỏ mình.
Thịt nát, xương tan, hồn thảm bại
Nghìn năm ôm hận cõi u minh !
Những ai làm lính viễn chinh,
Chiều nay bước xuống tàu binh trở về.
Tàu xúp - lê !
Tàu xúp - lê !
Cửa Hàm Tử lao xao sóng gợn
Bến Bạch Đằng lởn vởn hồn quê …
Bước đi những bước nặng nề
Ngày đi chẳng biết, ngày về chẳng hay !
Một ngàn chín trăm năm sáu (1956)
Một ngàn tám trăm sáu hai (1862)
Giật mình bấm đốt ngón tay,
Trăm năm một giấc mộng dài hãi kinh !
Ngày anh đến đây :
Thành Đà Nẵng tan hoang vì đại bác
Xác anh hùng Đinh Lý hóa tro bay !
Giữ Gia Định, Duy Ninh liều mạng thác
Ôm quốc kỳ tuẩn tiết giữa trùng vây !
Phan Thanh Giản nuốt hờn pha thuốc độc
Bởi xâm lăng bắt nhượng nước non nầy !
Và Thăng Long máu hòa ba lớp đất
Mất kinh thành, Hoàng Diệu ngã trên thây ! …
Hỡi ơi ! Xương máu dẫy đầy,
Chân anh dẫm tới, đất nầy tóc tang !
Tay gươm, tay súng
Bước nghinh, bước ngang
Anh bắn !
Anh giết !
Anh đâm !
Anh dầm !
Anh đày Bà Rá, Côn Lôn,
Anh đọa Sơn La, Lao Bảo …
Anh đoạt hết cơm hết áo,
Anh giựt hết bạc hết vàng …
Chặt đầu ông lão treo hàng thịt,
Mổ mật thanh niên giữa chiến tràng.
Cối quết trẻ thơ văng nát óc,
Phanh thây sản phụ đốt thành than ! …
Con lìa mẹ,
Vợ xa chồng,
Cây rụi lá,
Nhà trống không …
Người chìm đáy biển
Người tấp ven sông
Người ngã trên núi
Người gục trong rừng …
Đây Cà Mau, đó Nam Quan,
Hung hăng anh bóp trong bàn tay tanh !
Nước tôi đang độ yên vui sống
Mít ngát hương mùa, bưởi ngọt thanh
Lúa nặng tình quê, khoai luyến đất,
Không thương nhau, lại giết nhau đành !
Cắn răng tôi chịu cực hình
Vuốt râu anh hưởng công linh đồng bào.
Anh phân ly Nam, Bắc
Anh chia rẻ nghèo, giàu.
Nước non anh quậy tan tành hết
Cho oán hờn nhau, giết lẫn nhau ,
Người chết thì dại,
Người sống thì ngu.
Dân ngu vì bị làm ngu
Đặng dân làm ngựa, làm trâu suốt đời !
Nhưng, thôi !
Bao năm khói lửa
Ta hiểu nhau rồi !
Cái gì bạo ngược là phi nghĩa
Là trái lòng dân, nghịch ý trời.
Sắt thép tinh ròng, binh tướng dữ
Không sao thắng được trái tim người !
Anh về là phải, anh ơi !
Về bây giờ, để còn đời nhớ anh.
Những cái gì tôi hận
Những cái gì tôi khinh,
Bây giờ anh xuống tàu binh
Trăm năm chuyện cũ, thôi mình bỏ qua !
Bao giờ tôi chẳng nhớ
Nước Pháp rộng bao la,
Thành Paris rực-rỡ
Ánh văn minh chói lòa …
“Cốt Đa-duya” (Côte d’Azur ) người thanh và cảnh lịch
Bờ “Mạc-xây”(Marseille) xinh đẹp nhất sơn hà.
Khí sông núi đúc nên trang tuấn kiệt
Bực anh hùng cứu quốc “RỐP” (Job), “RĂNG-ĐA” (Jean D'arc)
Tôi nhớ lắm, một ngày năm “tám chín” (1789)
Anh vùng lên phá ngục “BÁT-TI ” (Bastille) nhà,
Anh giải-phóng cho giống nòi được sống
Được vinh quang trong “Đệ Tứ Cộng Hòa” !
Anh vui, anh sướng,
Anh hát, anh ca …
Tôi là người ở phương xa
Ngày anh sáng lạn (xán lạn) cũng hòa niềm vui !
Anh về nước Pháp xa xôi
Chắc anh bao giờ quên được,
Những là đường đi nước bước
Những là tên tuổi Việt Nam :
Suối Yên Thế tuôn tràn hậm hực,
Đất Thái Nguyên căm tức nổi vồng,
Tháp Mười hận nước mênh mông
U Minh mấy trận bão lòng chưa nguôi ! …
Việt Nam, nước của tôi :
Sông sâu, đồng rộng,
Trái tốt, hoa tươi …
Hà Nội kinh thành trang chiến sử
Sài Côn đô thị rạng anh tài.
Phú Xuân bừng chói gương ưu quốc
Nghĩa nặng tình thâm vạn thuở nay !
Việt Nam, nước của tôi :
Già như trẻ
Gái như trai
Chết thì chịu chết
Không cúi lòn ai !
Tham lam ai muốn vô xâm chiếm,
Thì “giặc vào đây, chết ở đây” !
Việt Nam, nước của tôi :
Ruộng dâu hóa bể
Lòng chẳng đổi thay.
Dầu ai cắt đất chia hai
Cho trong đau khổ, cho ngoài thở than.
Dầu ai banh ruột xé gan,
Cho tim xa óc, cho nàng lìa tôi.
Đinh ninh anh nhớ một lời :
“Ngày mai thống nhất liền đôi bến bờ” !
Đã đến giờ
Chia tay cách biệt
Anh lìa nước Việt
Vừa tủi vừa mừng.
Bên nhà vợ đợi con trông,
Vắng anh, tình mặn nghĩa nồng cũng phai.
Tàu xúp - lê một !
Tàu xúp - lê hai !
Siết tay anh nhé, anh về nước,
Biển lặng trời êm nhớ lấy ngày.
Và chẳng bao giờ quên nhắc nhở
Cho ai đừng đến đọa đày ai !
Tự vấn lương tâm rồi tự đáp :
- Đánh cho ai, và chết cho ai ???
Bóng ngả trời tây
Gió lồng biển cả ,
Phút giây từ giã
Trang sử trăm năm !
Tàu anh rời bến Việt Nam ,
Hãy xuôi một ngả, một đường mà đi.
Xin tàu đừng ghé Bắc Phi,
Sóng to gió lớn, chắc gì đến nơi .
Đừng gây oan trái, tàu ơi,
Hãy xuôi về Pháp cho người hát ca !
Tàu xúp - lê hai !!
Tàu xúp - lê ba !!!
Anh về mạnh giỏi
- Ô - rờ - voa ! (Aurevoir)
TRUY PHONG
(1956)
* Còn nhiều DẠNG THƠ VIỆT NAM ĐẶC BIỆT khác nữa, như DẠNG THƠ NÓI LÁI, DẠNG THƠ HÌNH... Do bài đã khá dài và do khó định dạng, xếp chữ cho loại THƠ HÌNH nên chúng tôi chỉ gửi đăng phần II thôi. Mời quý bạn sẽ đọc tiếp DẠNG THƠ VIỆT NAM ĐẶC BIỆT PHẦN III trong các bài viết sau. Chúc vui!
La Thuỵ sưu tầm và biên tập
*MỘT SỐ BÀI THƠ VIỆT CHEN NGOẠI NGỮ
GÁI QUÊ
Trèo lên mười bậc đít mông - tê (monter = trèo)
Tiên cùng không rượu, chẳng cà - phê (fée = tiên)
Chín lầu cửa khoá, lo nơm nớp (neuf = chín)
Nằm tính thâu đêm chuyện cút – sê (coucher = nằm)
Nguyễn Thanh Nhung
PHÚT CHIA LY
Nói mãi nàng vẫn đi (dit = nói)
Sét đánh rền một phút (foudre = sét)
Giường ngập lệ chia ly (lit = giường)
Tràn sâu vào nửa mét (mettre = tràn ngập)
Kiều Phong
GIŨ LỤA
Tay nâng dải lụa mong manh (main = tay)
Gái quê mà lại như hình cung phi (fille = gái)
Đời còn bao nỗi vân vi (vie = đời)
Làm sao trả nổi những gì ta vay (travail = làm)
Võ Viết Quân
HOA TƯƠNG TƯ
Yêu em , cũng biết được em mê (aimmer = yêu)
Câm nín chi cho dạ tái tê (taire = câm)
Hồ mộng đôi phen tha thiết lắc (lac = hồ)
Tiên bồng một cõi thảnh thơi phê (fée = tiên)
Đường mây chưa phỉ can chi rút ( route = đường)
Mũi sóng cao đành quá chấp nê (nez = mũi)
Đò đến cầu lam mong được bắc (bac =đò)
Tương tư hoài một đoá « păng- sê» (pensée = tương tư)
Thân Trọng Thuỳ Như
(Quận 3 – TP HCM)
CỨ MƠ
Tôi thức sao mà tôi cứ mơ (me = tôi)
Lửa tình âm ỉ cháy lơ phơ (feu = lửa)
Bốn phương ngóng bóng trời mù cát (quatre = bốn)
Hai ngựa đưa tin vô cùng đơ (deux =hai)
Đầu bạc lại xanh màu lễ tết (tête = đầu)
Tim hồng thêm thắm nhịp thời cơ (coeur =tim)
Cả toà thiên phú mà nuy tú (tout = tất cả)
Cầu ước chuyện kia chẳng vẩn vơ (voeux = cầu ước)
Võ Viết Doãn
Bài thơ nói lên tâm sự một phụ nữ VN lấy chồng là một viên công sứ Pháp mãn nhiệm trở về nước
J’ écris (tôi viết) tình thư une lettre (một lá)
Envoie (gửi) thăm hỏi me-sừ Le Résident (ông công sứ)
Toute seul (một mình) gạt nước mắt than rằng :
Cochon (con lợn) long đong lỡ làng,
Từ khi thiếp bén duyên chàng
La noce (đám cưới) chưa đặng một bàn tiệc vui
Éloigner (xa cách) ai khéo dục xui
Couteau (con dao) sao nỡ cắt mùi nguyệt hoa
La cour (sân nhà) mousse (cỏ) mọc lune (trăng) tà
La chambre (buồng ngủ) biết lấy ai làm ami (bạn)
Lạnh lùng chiếc chemise (áo) lấp ló,
Ta figure (khuôn mặt anh) thấy đó mà mong
Bây giờ tình biết comment (làm sao) bây giờ
Pourqoi (tại sao) nỡ để silent (im lặng) cho đành
(Ông Đinh Hương Sơn sưu tầm và đăng trên tạp chí "Xưa và Nay"số 257 (Tháng 4/1946)
ĐÒI LẠI NHÀ TỰ BỊ NGƯỜI Ở NHỜ CHIẾM
Nhà moa bị cướp (moi = tôi)
Nhà moa cho ở, luý tăng-pi (lui =anh ta ; tant pis = cóc cần)
Cướp của mà không tiếng mẹc-xì (merci = cám ơn)
Mặc kệ moa kêu vang pạc- tú (partout = khắp nơi)
Ung dung luý vẫn sống i-xi (ici = ở đây)
Ái tình nhân nghĩa nơ vô riêng (ne vaut rien = không có giá trị gì)
Móc ngoặc ô dù xà súp phi (cà suffi = đã đủ rồi)
Nên đành chịu lép tút la vi (tout la vie = suốt cả đời)
Chỉ tội lơ duýt quên tat-chơ
(le judge =quan toà; tâche = trách nhiệm)
Giáo sư Dương Thiệu Tống
( Do mình dùng chương trình bàn phím tiếng Việt Unikey, một số mẫu tự tiếng Pháp không có trong Unikey nên gõ không được chuẩn lắm )
MỘT THẾ - KỶ MẤY VẦN THƠ
*Tiễn chân quân viễn chinh Pháp
*Kỷ niệm 100 năm Việt Nam đau khổ
Ánh hồng chói rạng chân trời mới
Ngọn lửa đao binh tắt lịm rồi.
Có kẻ chiều nay về cố quán,
Âm thầm, không biết hận hay vui ?!
Chiều nay,
Kèn kêu tức tưởi nghẹn lời
Tiếng ngân xúc động dạ người viễn chinh !
Chiều nay trên nghĩa địa
Có một đoàn tinh binh
Cờ rủ và súng xếp
Cúi đầu và lặng thinh.
Nghẹn ngào giã biệt người thiên cổ
Đất lạ trời xa sớm bỏ mình.
Thịt nát, xương tan, hồn thảm bại
Nghìn năm ôm hận cõi u minh !
Những ai làm lính viễn chinh,
Chiều nay bước xuống tàu binh trở về.
Tàu xúp - lê !
Tàu xúp - lê !
Cửa Hàm Tử lao xao sóng gợn
Bến Bạch Đằng lởn vởn hồn quê …
Bước đi những bước nặng nề
Ngày đi chẳng biết, ngày về chẳng hay !
Một ngàn chín trăm năm sáu (1956)
Một ngàn tám trăm sáu hai (1862)
Giật mình bấm đốt ngón tay,
Trăm năm một giấc mộng dài hãi kinh !
Ngày anh đến đây :
Thành Đà Nẵng tan hoang vì đại bác
Xác anh hùng Đinh Lý hóa tro bay !
Giữ Gia Định, Duy Ninh liều mạng thác
Ôm quốc kỳ tuẩn tiết giữa trùng vây !
Phan Thanh Giản nuốt hờn pha thuốc độc
Bởi xâm lăng bắt nhượng nước non nầy !
Và Thăng Long máu hòa ba lớp đất
Mất kinh thành, Hoàng Diệu ngã trên thây ! …
Hỡi ơi ! Xương máu dẫy đầy,
Chân anh dẫm tới, đất nầy tóc tang !
Tay gươm, tay súng
Bước nghinh, bước ngang
Anh bắn !
Anh giết !
Anh đâm !
Anh dầm !
Anh đày Bà Rá, Côn Lôn,
Anh đọa Sơn La, Lao Bảo …
Anh đoạt hết cơm hết áo,
Anh giựt hết bạc hết vàng …
Chặt đầu ông lão treo hàng thịt,
Mổ mật thanh niên giữa chiến tràng.
Cối quết trẻ thơ văng nát óc,
Phanh thây sản phụ đốt thành than ! …
Con lìa mẹ,
Vợ xa chồng,
Cây rụi lá,
Nhà trống không …
Người chìm đáy biển
Người tấp ven sông
Người ngã trên núi
Người gục trong rừng …
Đây Cà Mau, đó Nam Quan,
Hung hăng anh bóp trong bàn tay tanh !
Nước tôi đang độ yên vui sống
Mít ngát hương mùa, bưởi ngọt thanh
Lúa nặng tình quê, khoai luyến đất,
Không thương nhau, lại giết nhau đành !
Cắn răng tôi chịu cực hình
Vuốt râu anh hưởng công linh đồng bào.
Anh phân ly Nam, Bắc
Anh chia rẻ nghèo, giàu.
Nước non anh quậy tan tành hết
Cho oán hờn nhau, giết lẫn nhau ,
Người chết thì dại,
Người sống thì ngu.
Dân ngu vì bị làm ngu
Đặng dân làm ngựa, làm trâu suốt đời !
Nhưng, thôi !
Bao năm khói lửa
Ta hiểu nhau rồi !
Cái gì bạo ngược là phi nghĩa
Là trái lòng dân, nghịch ý trời.
Sắt thép tinh ròng, binh tướng dữ
Không sao thắng được trái tim người !
Anh về là phải, anh ơi !
Về bây giờ, để còn đời nhớ anh.
Những cái gì tôi hận
Những cái gì tôi khinh,
Bây giờ anh xuống tàu binh
Trăm năm chuyện cũ, thôi mình bỏ qua !
Bao giờ tôi chẳng nhớ
Nước Pháp rộng bao la,
Thành Paris rực-rỡ
Ánh văn minh chói lòa …
“Cốt Đa-duya” (Côte d’Azur ) người thanh và cảnh lịch
Bờ “Mạc-xây”(Marseille) xinh đẹp nhất sơn hà.
Khí sông núi đúc nên trang tuấn kiệt
Bực anh hùng cứu quốc “RỐP” (Job), “RĂNG-ĐA” (Jean D'arc)
Tôi nhớ lắm, một ngày năm “tám chín” (1789)
Anh vùng lên phá ngục “BÁT-TI ” (Bastille) nhà,
Anh giải-phóng cho giống nòi được sống
Được vinh quang trong “Đệ Tứ Cộng Hòa” !
Anh vui, anh sướng,
Anh hát, anh ca …
Tôi là người ở phương xa
Ngày anh sáng lạn (xán lạn) cũng hòa niềm vui !
Anh về nước Pháp xa xôi
Chắc anh bao giờ quên được,
Những là đường đi nước bước
Những là tên tuổi Việt Nam :
Suối Yên Thế tuôn tràn hậm hực,
Đất Thái Nguyên căm tức nổi vồng,
Tháp Mười hận nước mênh mông
U Minh mấy trận bão lòng chưa nguôi ! …
Việt Nam, nước của tôi :
Sông sâu, đồng rộng,
Trái tốt, hoa tươi …
Hà Nội kinh thành trang chiến sử
Sài Côn đô thị rạng anh tài.
Phú Xuân bừng chói gương ưu quốc
Nghĩa nặng tình thâm vạn thuở nay !
Việt Nam, nước của tôi :
Già như trẻ
Gái như trai
Chết thì chịu chết
Không cúi lòn ai !
Tham lam ai muốn vô xâm chiếm,
Thì “giặc vào đây, chết ở đây” !
Việt Nam, nước của tôi :
Ruộng dâu hóa bể
Lòng chẳng đổi thay.
Dầu ai cắt đất chia hai
Cho trong đau khổ, cho ngoài thở than.
Dầu ai banh ruột xé gan,
Cho tim xa óc, cho nàng lìa tôi.
Đinh ninh anh nhớ một lời :
“Ngày mai thống nhất liền đôi bến bờ” !
Đã đến giờ
Chia tay cách biệt
Anh lìa nước Việt
Vừa tủi vừa mừng.
Bên nhà vợ đợi con trông,
Vắng anh, tình mặn nghĩa nồng cũng phai.
Tàu xúp - lê một !
Tàu xúp - lê hai !
Siết tay anh nhé, anh về nước,
Biển lặng trời êm nhớ lấy ngày.
Và chẳng bao giờ quên nhắc nhở
Cho ai đừng đến đọa đày ai !
Tự vấn lương tâm rồi tự đáp :
- Đánh cho ai, và chết cho ai ???
Bóng ngả trời tây
Gió lồng biển cả ,
Phút giây từ giã
Trang sử trăm năm !
Tàu anh rời bến Việt Nam ,
Hãy xuôi một ngả, một đường mà đi.
Xin tàu đừng ghé Bắc Phi,
Sóng to gió lớn, chắc gì đến nơi .
Đừng gây oan trái, tàu ơi,
Hãy xuôi về Pháp cho người hát ca !
Tàu xúp - lê hai !!
Tàu xúp - lê ba !!!
Anh về mạnh giỏi
- Ô - rờ - voa ! (Aurevoir)
TRUY PHONG
(1956)
* Còn nhiều DẠNG THƠ VIỆT NAM ĐẶC BIỆT khác nữa, như DẠNG THƠ NÓI LÁI, DẠNG THƠ HÌNH... Do bài đã khá dài và do khó định dạng, xếp chữ cho loại THƠ HÌNH nên chúng tôi chỉ gửi đăng phần II thôi. Mời quý bạn sẽ đọc tiếp DẠNG THƠ VIỆT NAM ĐẶC BIỆT PHẦN III trong các bài viết sau. Chúc vui!
La Thuỵ sưu tầm và biên tập
Người VN có tài "thi hoá" bài học ngoại ngữ. Thời xưa đã có người “nôm hoá” chữ Hán để học trò học dễ thuộc, một dạng như tam tự kinh rất đặc thù VN, chẳng hạn :
Trả lờiXóa天 thiên: trời
地 điạ: đất.
舉 cử : cất
存 tồn: còn.
子 tử : con
孫 tôn: cháu.
六 lục: sáu
三 tam: ba
家 gia: nhà
國 quốc : nước
前 tiền: trước
後 hậu: sau
牛 ngưu: trâu
馬mã: ngựa
距 cự : cựa
牙 nha: răng
無 vô :chăng (chẳng, không)
有 hữu: có
犬 khuyển: chó
羊 dương: dê
歸 qui: về
走 tẩu: chạy
拜 bái: lạy
跪 quỵ: quỳ
去 khứ: đi
來 lai: lại
女 nữ: gái
男 nam: trai
帶 đái: đai (thắt lưng)
冠 quan: mũ
足 túc: đủ
多 đa : nhiều
愛 ái: yêu
憎 tăng: ghét
識 thức: biết
知 tri: hay
木 mộc: cây
根 căn: rễ
易 dị: dễ
難 nan: khôn
旨 chỉ: ngon
甘 cam: ngọt
柱 trụ: cột
樑 lương: rường
床 sàng:giường
席 tịch: chiếu
欠 khiếm: thiếu
餘 dư: thừa
鋤 sừ: bừa
鞠 cúc: cuốc
燭 chúc: đuốc
燈 đăng: đèn
升 thăng: lên
降 giáng: xuống
田 điền: ruộng
宅 trạch: nhà
老 lão: già
童 đồng: trẻ
雀 tước: sẻ
鷄 雞 kê: gà
我 ngã: ta
他 tha: khác
伯 bá: bác
姨 di: dì
鉛 diên: chì
錫 tích: thiết
役 dịch: việc
功 công:công
翰 hàn: lông
翼 dực: cánh
聖 thánh: thánh
賢 hiền: hiền
僊 仙 tiên: tiên
佛 phật: bụt
潦 lạo: lụt
潮 triều: triều
鳶 diên: diều 鳳
CHÉP GỬI QUÝ BẠN BÀI THƠ SONG NGỮ VIỆT - ANH NHÉ:
Trả lờiXóaNói sai sự thật to lie
Go đi, come đến, một vài là some
Đứng stand, look ngó, lie nằm
Five năm, four bốn, hold cầm, play chơi
One life là một cuộc đời
Happy sung sướng, laugh cười, cry kêu
Lover tạm dịch ngừơi yêu
Charming duyên dáng, mỹ miều graceful
Mặt trăng là chữ the moon
World là thế giới, sớm soon, lake hồ
Dao knife, spoon muỗng, cuốc hoe
Đêm night, dark tối, khổng lồ là giant
Fun vui, die chết, near gần
Sorry xin lỗi, dull đần, wise khôn
Burry có nghĩa là chôn
Our souls tạm dịch linh hồn chúng ta
Xe hơi du lịch là car
Sir ngài, Lord đức, thưa bà Madam
Thousand là đúng...mười trăm
Ngày day, tuần week, year năm, hour giờ
Wait there đứng đó đợi chờ
Nightmare ác mộng, dream mơ, pray cầu
Trừ ra except, deep sâu
Daughter con gái, bridge cầu, pond ao
Enter tạm dịch đi vào
Thêm for tham dự lẽ nào lại sai
Shoulder cứ dịch là vai
Writer văn sĩ, cái đài radio
A bowl là một cái tô
Chữ tear nước mắt, tomb mồ, miss cô
Máy khâu dùng tạm chữ sew
Kẻ thù dịch đại là foe chẳng lầm
Shelter tạm dịch là hầm
Chữ shout là hét, nói thầm whisper
What time là hỏi mấy giờ
Clear trong, clean sạch, mờ mờ là dim
Gặp ông ta dịch see him
Swim bơi, wade lội, drown chìm chết trôi
Mountain là núi, hill đồi
Valley thung lũng, cây sồi oak tree
Tiền xin đóng học school fee
Yêu tôi dùng chữ love me chẳng lầm
To steal tạm dịch cầm nhầm
Tẩy chay boycott, gia cầm poultry
Cattle gia súc, ong bee
Something to eat chút gì để ăn
Lip môi, tongue lưỡi, teeth răng
Exam thi cử, cái bằng licence...
Lovely có nghĩa dễ thương
Pretty xinh đẹp thường thường so so
Lotto là chơi lô tô
Nấu ăn là cook , wash clothes giặt đồ
Push thì có nghĩa đẩy, xô
Marriage đám cưới, single độc thân
Foot thì có nghĩa bàn chân
Far là xa cách còn gần là near
Spoon có nghĩa cái thìa
Toán trừ subtract, toán chia divide
Dream thì có nghĩa giấc mơ
Month thì là tháng , thời giờ là time
Job thì có nghĩa việc làm
Lady phái nữ, phái nam gentleman
Close friend có nghĩa bạn thân
Leaf là chiếc lá, còn sun mặt trời
Fall down có nghĩa là rơi
Welcome chào đón, mời là invite
Short là ngắn, long là dài
Mũ thì là hat, chiếc hài là shoe
Autumn có nghĩa mùa thu
Summer mùa hạ , cái tù là jail
Duck là vịt , pig là heo
Rich là giàu có, còn nghèo là poor
Crab thì có nghĩa con cua
Trả lờiXóaChurch nhà thờ đó, còn chùa temple
Aunt có nghĩa dì, cô
Chair là cái ghế, cái hồ là pool
Late là muộn, sớm là soon
Hospital bệnh viện, school là trường
Dew thì có nghĩa là sương
Happy vui vẻ, chán chường weary
Exam có nghĩa kỳ thi
Nervous nhút nhát, mommy mẹ hiền.
Region có nghĩa là miền,
Interupted gián đoạn còn liền next to.
Coins dùng chỉ những đồng xu,
Còn đồng tiền giấy paper money.
Here chỉ dùng để chỉ tại đây,
A moment một lát còn ngay ringht now,
Brothers-in-law đồng hao.
Farm-work đồng áng, đồng bào Fellow- countryman
Narrow- minded chỉ sự nhỏ nhen,
Open-hended hào phóng còn hèn là mean.
Vẫn còn dùng chữ still,
Kỹ năng là chữ skill khó gì!
Gold là vàng, graphite than chì.
Munia tên gọi chim ri
Kestrel chim cắt có gì khó đâu.
Migrant kite là chú diều hâu
Warbler chim chích, hải âu petrel
Stupid có nghĩa là khờ,
Đảo lên đảo xuống, stir nhiều nhiều.
How many có nghĩa bao nhiêu.
Too much nhiều quá, a few một vài
Right là đúng, wrong là sai
Chess là cờ tướng, đánh bài playing card
Flower có nghĩa là hoa
Hair là mái tóc, da là skin
Buổi sáng thì là morning
King là vua chúa, còn Queen nữ hoàng
Wander có nghĩa lang thang
Màu đỏ là red, màu vàng yellow
Yes là đúng, không là no
Fast là nhanh chóng, slow chậm rì
Sleep là ngủ, go là đi
Weakly ốm yếu healthy mạnh lành
White là trắng, green là xanh
Hard là chăm chỉ, học hành study
Ngọt là sweet, kẹo candy
Butterfly là bướm, bee là con ong
River có nghĩa dòng sông
Wait for có nghĩa ngóng trông đợi chờ
Dirty có nghĩa là dơ
Bánh mì bread, còn bơ butter
Bác sĩ thì là doctor
Y tá là nurse, teacher giáo viên
Mad dùng chỉ những kẻ điên,
Everywhere có nghĩa mọi miền gần xa.
A song chỉ một bài ca.
Ngôi sao dùng chữ star, có liền!
Firstly có nghĩa trước tiên
Silver là bạc, còn tiền money
Biscuit thì là bánh quy
Can là có thể, please vui lòng
Winter có nghĩa mùa đông
Iron là sắt còn đồng copper
Kẻ giết người là killer
Cảnh sát police, lawyer luật sư
Emigrate là di cư
Bưu điện post office, thư từ là mail
Follow có nghĩa đi theo
Shopping mua sắm còn sale bán hàng
Space có nghĩa không gian
Hàng trăm hundred, hàng ngàn thousand
Stupid có nghĩa ngu đần
Thông minh smart, equation phương trình
Television là truyền hình
Băng ghi âm là tape, chương trình program
Hear là nghe watch là xem
Electric là điện còn lamp bóng đèn
Praise có nghĩa ngợi khen
Crowd đông đúc, lấn chen hustle
Capital là thủ đô
City thành phố, local địa phương
Country có nghĩa quê hương
Field là đồng ruộng còn vườn garden
Chốc lát là chữ moment
Fish là con cá, chicken gà tơ
Naive có nghĩa ngây thơ
Poet thi sĩ , great writer văn hào
Tall thì có nghĩa là cao
Short là thấp ngắn, còn chào hello
Uncle là bác, elders cô.
Shy mắc cỡ, coarse là thô.
Come on có nghĩa mời vô,
Go away đuổi cút, còn vồ pounce.
Poem có nghĩa là thơ,
Strong khoẻ mạnh, mệt phờ dog- tiered.
Bầu trời thường gọi sky,
Life là sự sống còn die lìa đời
Shed tears có nghĩa lệ rơi
Fully là đủ, nửa vời by halves
Ở lại dùng chữ stay,
Bỏ đi là leave còn nằm là lie.
Tomorrow có nghĩa ngày mai
Hoa sen lotus, hoa lài jasmine
Madman có nghĩa người điên
Private có nghĩa là riêng của mình
Cảm giác là chữ feeling
Camera máy ảnh hình là photo
Động vật là animal
Big là to lớn, little nhỏ nhoi
Elephant là con voi
Goby cá bống, cá mòi sardine
Mỏng mảnh thì là chữ thin
Cổ là chữ neck, còn chin cái cằm
Visit có nghĩa viếng thăm
Lie down có nghĩa là nằm nghỉ ngơi
Mouse con chuột , bat con dơi
Separate có nghĩa tách rời, chia ra
Gift thì có nghĩa món quà
Guest thì là khách chủ nhà house owner
Bệnh ung thư là cancer
Lối ra exit, enter đi vào
Up lên còn xuống là down
Beside bên cạnh, about khoảng chừng
Stop có nghĩa là ngừng
Ocean là biển, rừng là jungle
Silly là kẻ dại khờ,
Khôn ngoan smart, đù đờ luggish
Hôn là kiss, kiss thật lâu.
Cửa sổ là chữ window
Special đặc biệt normal thường thôi
Lazy... làm biếng quá rồi
Ngồi mà viết tiếp một hồi die soon
Hứng thì cứ việc go on,
Còn không stop ta còn nghỉ ngơi!
Đây là một bài thơ theo lối thuận nghịch độc của Phạm Thái, đọc xuôi bằng chữ Hán, đọc ngược bằng chữ Nôm. Bản dịch chính là bản đọc ngược của bài thơ bằng chữ Nôm do chính Chiêu Lì Phạm Thái dịch.
Trả lờiXóaĐọc xuôi:
VỊNH TỐ NỮ ĐỒ
Thanh xuân toả liễu lãnh tiêu phòng,
Cẩm trục đình châm ngại điểm trang.
Thanh lượng độ tiên phù phất lục,
Đạm hy tán cúc thái sơ hoàng.
Tình si dị tố liêm biên nguyệt,
Mộng xúc tằng liêu trướng đính sương.
Tranh khúc cưỡng khiêu sầu tự bạn,
Oanh ca nhã vịnh các tiêu hương.
Phạm Thái
Đọc ngược là bản do chính Phạm Thái dịch ra chữ Nôm
ĐỀ TRANH MỸ NỮ
Hương tiêu gác vắng nhặt ca oanh
Bận mối sầu khêu gượng khúc tranh
Sương đỉnh trướng gieo từng giục mộng
Nguyệt bên rèm, tỏ dễ si tình
Vàng tha thướt, cúc tan hơi đạm
Lục phất phơ, rêu đọ rạng thanh
Trang điểm ngại chăm, dừng trục gấm
Phòng tiêu lạnh lẽo khoá xuân xanh.
Phạm Thái
Giai thoại nói rằng một hôm Phạm Thái ngồi uống rượu với Kiến Xuyên hầu. Kiến Xuyên hầu trông vào bức tranh tố nữ, bảo ông thử uống cạn mười chén, vịnh thơ một bài. Phạm Thái vâng mệnh, cất bút thảo luôn bài này. Hầu xem xong thích lắm, khen là “thanh quan thắng tuyệt” (trong sáng tuyệt vời), từ đấy hầu có ý muốn gả con gái là Trương Quỳnh Như cho Phạm Thái, vì cũng biết là hai người đã yêu nhau. Tuy nhiên, bà mẹ Quỳnh Như không bằng lòng, sau Quỳnh Như bị ép gả cho một người khác, nàng liền tự tử. Từ đấy Phạm Thái buồn bã, chán nản, đi lang thang đây đó, uống rượu làm thơ, tự xưng là Chiêu Lỳ.
Phạm Thái (chữ Hán: 範泰, 1777-1813), còn gọi Phạm Đan Phượng, Phạm Phượng Sinh, hiệu Chiêu Lì (hoặc Chiêu Lỳ); là một danh sĩ ở cuối thế kỷ 18 đến đầu thế kỷ 19 trong lịch sử Việt Nam.
Trả lờiXóaTác phẩm của Phạm Thái gồm:
CHIẾN TỤNG TÂY HỒ PHÚ (Đánh lại bài “Phú ca tụng hồ Tây”):
Đây là một bài phú họa lại 85 vận của bài Tụng Tây Hồ của Nguyễn Huy Lượng. Mục đích của ông là có ý đả phá nhà Tây sơn, một triều đại mà ông Lượng đang suy tôn.
SƠ KÍNH TÂN TRANG (Câu chuyện mới về lược và gương):
Sáng tác năm Giáp Tý (1804), tức năm Phạm Thái 21 tuổi. Đây là một truyện thơ Nôm gồm 1484 câu, chủ yếu là thơ lục bát, có xen một ít bài thơ Đường luật, thơ cổ phong và thơ song thất lục bát. Nội dung truyện kể lại một câu chuyện tình duyên lãng mạn và trắc trở, hư cấu trên cơ sở mối tình cay đắng của chính tác giả với Trương Quỳnh Như
Chung quanh mối quan hệ với Trương Quỳnh Như, ông có một số thơ Nôm như sau:
VĂN TẾ TRƯƠNG QUỲNH NHƯ
THƠ HỌA 12 BÀI TRƯƠNG QUỲNH NHƯ.
Ngoài ra, ông còn có một bài Văn triệu linh theo thể song thất lục bát, “Văn bia mộ Thanh Xuyên hầu” theo thể lục bát và một số bài thơ Nôm ngẩu cảm như: “Tự trào, Tự thuật, Đề tranh mỹ nữ, Đề chùa Tiêu Sơn, Họa thơ Thanh Xuyên hầu, Đề nhà Nghĩa lư, Đề núi Con Voi”, v.v…
Phạm Thái là nhân vật trong tác phẩm TIÊU SƠN TRÁNG SĨ của Khái Hưng với bài thơ Đường luật nổi tiếng theo thể yết hậu:
Trả lờiXóaSống ở dương gian đánh chén nhè
Chết về âm phủ cắp kè kè
Diêm vương phán hỏi rằng chi đó?
- Be !
Phạm Thái cũng được nhà thơ Bùi Giáng nhắc đến trong bài thơ RƯỢU UỐNG
Thưa em rượu uống bây giờ
Là thiên cổ lụy còn trơ bên mình
Tài hoa tiếng vọng điêu linh
Phạm Ðan Phượng chết theo Quỳnh Như sao.
Thưa em từ bữa nghiêng chào
Chớm trang đầu chợt sóng trào trường giang
Bài thơ đọc xuôi VỊNH TỐ NỮ ĐỒ có âm Hán Việt của Phạm Thái. Bản dịch VỊNH TRANH MỸ NỮ đọc ngược có âm Nôm không những đọc ngược từ sau ra trước mà đọc từ câu thứ 8 dịch ngược lên trên câu thứ nhất so với bản gốc có âm Hán Việt.
Trả lờiXóa