MỘT TRƯƠNG
"Trích trong Vĩ Văn"
Trong nguyệt san Kiến
Thức Ngày Nay, khi không xuất hiện một bài biên khảo ký tên là Phan Khắc Khoan,
nội dung là tiên sinh phát hiện ra rằng hai câu Kiều của Nguyễn Du :
Cung thương lầu bậc ngũ
âm (câu 29)
Nghề riêng ăn đứt Hồ Cầm
một chương (câu 30)
Theo ý của tiên sinh
Phan Khắc Khoan san định Văn Học thỉ câu thứ ba mươi phải là "Một
Trương", vì bên Trung Quốc có một vị nhạc sư tên là Trương (con thứ nhất)
nên thiên hạ mến mộ tài năng thường gọi là Một Trương, người này chuyên trị Hồ
Cầm, thuộc vào loại danh sư số một .
"kỳ sau đăng
tiếp"
Rồi không thấy bài của
tiên sinh đăng tiếp nữa, để xem Mr Một Trương là nhân vật như thế nào ? Sống
vào thời nào ? mà chỉ thấy bài của học giả An Chi… đánh phủ đầu, sau đó thì
tiên sinh Phan Khắc Khoan đương sống "chuyển qua từ trần", thành ra
công trình phát hiện san định Văn Học đến đây là un point final. Cũng tưởng
nhắc qua chút đỉnh về thi sĩ Phan Khắc Khoan, tiên sinh sinh vào khoảng juin
1916 ở làng Yên Lãng, Yên Thành (Nghệ An). Mồ côi mẹ từ thủa bé, năm 15 tuổi
thì cha bị mù. Học trường Huyện, Trường Vinh có bằng Thành Chung, đã đăng thơ ở
Phong Hóa (ký Chàng Trương), Thế Giới, Tri Tân thơ ký Hồng Chương, ngoài ra con
vài vở kịch thơ nổi tiếng như Phạm Thái và Trần Can… (phần tiểu sử trích đoạn
trong Thi Nhân Việt nam của Hoài Thanh và Hoài Chân)
Tôi được hân hạnh gặp tiên sinh nhiều lần, vì năm 1979 tôi có chung tiền hùn hạp với bạn bè mở một quán cà phê ở đường Lê Văn Duyệt gần rạp cinê Thanh Vân gần Ngã Ba Chí Hòa, được biết tiên sinh là nhà thơ Tiền Chiến còn sót lại, tiếng tăm cũng khiêm tốn, lại tù rất là nhiều năm, thường đi cặp với thầy Nguyễn văn Xung "vị này là thầy dạy bên Văn Khoa của vợ tôi"
Tôi được hân hạnh gặp tiên sinh nhiều lần, vì năm 1979 tôi có chung tiền hùn hạp với bạn bè mở một quán cà phê ở đường Lê Văn Duyệt gần rạp cinê Thanh Vân gần Ngã Ba Chí Hòa, được biết tiên sinh là nhà thơ Tiền Chiến còn sót lại, tiếng tăm cũng khiêm tốn, lại tù rất là nhiều năm, thường đi cặp với thầy Nguyễn văn Xung "vị này là thầy dạy bên Văn Khoa của vợ tôi"
Nói là quán cà phê nhưng
ở giai đoạn đó toàn là bobo và bắp, cà phê có chút đỉnh, hai vị thường là đến
chơi cho vui, uống nước trà, lý do là tiên sinh Phan Khắc Khoan nhờ giáo sư
Nguyễn văn Xung (y như tiến sĩ Phan Lạc Tuyên vậy) “là mua dùm cho mình vài tác
phẩm cũ của chính mình, những cuốn sách loại cũ này bán ở lề đường (vĩa hè) rất
hiếm, giá bình dân, một hay hai đồng, nhưng những người bán sách nhìn qua
ánh mắt của tiên sinh Phan Khắc Khoan cứ lóe lên như tia chớp, hai tay nâng
cuốn sách thơ (hay kịch) thì cứ run lên như cầy sấy, đáng lẽ 1 đồng thì bây giờ
là 1 chỉ vàng hay một cây vàng! Qua lời thuật lại của thi sĩ Phan Khắc Khoan
thì thi sĩ là con rể của Thượng Thư Võ Chuẩn thời Bảo Đại, phu nhân của
thi sĩ là con gái thứ hai, sau người anh cả là Võ Sum Thạch Hà, chị của nữ sĩ
Linh Bảo và Minh Đức, năm 1954 Tiên sinh được Tố Hữu rủ ra tập kết ngoài Bắc và
bỏ tù tiên sinh vì tiên sinh làm thơ lãng mạn lại có danh. Sau đó đến thời kỳ
"Cải cách Ruộng Đất" vì nhà giam Hỏa Lò đông quá, tiên sinh được trả
tự do, nhưng không bao lâu tiên sinh lại bị bắt trở lại, lý do giản đơn giản
kép như sau :
“ Tiên sinh đi bộ trên
đường Cổ Ngư ngoại thành Hà Nội, không rõ vì "sự Ông Cố Ông Nội"
nào, tiên sinh bị người đi xe đạp đi ngang qua tông phải, chuyện không có gì mà
làm ầm ĩ, tiên sinh cũng không bị gì cả, nhưng vận may ngàn năm một thủa,
tiên sinh bèn nắm lăn ra lề đường ăn vạ, chắc là cũng được bồi thường chút đỉnh
"sứt da ba quan, chẩy máu 6 quan", người cưỡi xe đạp có lẽ là không
có tiền, hoặc nhìn thấy bộ dạng tiên sinh cũng chả hề hấn gì, đành đứng đó chờ
Công An đến, công an làm việc theo quy tắc, mời hai vị về đồn Cảnh Sát Phường
và xin xuất trình "Thẻ Chứng Minh Nhân Dân", thế là chắc ăn trăm phần
trăm. Vì mừng quá, đáng lẽ đưa Chứng Minh Nhân Dân thì thi sĩ lại móc túi đưa
ngay một bài thơ “than nghèo than khổ“ chả rõ bài thơ này được đưa tới tay ai
cơ quan chủ quản nào xử lý, nhưng kết quả cụ thể là tiên sinh đi tù tiếp ở
Hỏa Lò, giai đoạn 1954 đến 1975 là 21 năm thì tiên sinh tù trên 15 năm. Có một
điều là người không tù như tiến sĩ Phan Lạc Tuyên hoặc nhà phê bình Phan Cự Đệ
hay đi tù như thi sĩ Phan Khắc Khoan họ rất giống nhau, là họ nói bất cứ
chuyện gì cũng không rõ ràng và viết tràng giang đại hải đủ chuyện trên trời
dưới đất, cũng không rõ là họ nói cái gì và viết cái gì ? Quen biết giao lưu
với thi sĩ trong thời gian dài 6 năm, tôi - Chu Vương Miện chỉ hỏi tiên sinh có
một câu duy nhất "Bác tù trên 15 năm ở miền Bắc, vậy bác thấy tù như thế
nào ?"
Thì lần nào cũng như lần
đó, thi si Phan Khắc Khoan trả lời : "Thế này nhá, dơ tay rồi hạ
xuống", rồi nói tào lao thiên địa khoảng bốn giờ đồng hồ rồi thăng ?
Năm 1985, tôi đi Mỹ theo
diện ODP "bảo lãnh" thế là hết chuyện gặp lại giữa hai chúng
tôi.
AI LÀ MỘT TRƯƠNG
Vĩ Văn
Nay cũng hơi hưỡn, ở
không chúng tôi lại xin được trở lại vấn đề "Một Trương" mà nhà thơ
Tiền Chiến Phan Khắc Khoan đã có lần đề cập tới, nhưng chỉ chút đỉnh là ngưng
ngay tức khắc, tôi tính hay thắc mắc nên dò dẫm xem là Mr "Một
Trương" là vị cao nhân xứ nào ?
Nói tới thời nhà Đông
Tây Châu, xứ Ba Tàu có tới 1000 nước nhỏ, nước thuộc loại Chư Hầu, là nước trực
tiếp với đại quốc nhà Châu còn những nước thuộc loại phụ dung như nước
Ngô, nước Việt thì Ngô thuộc Tề và Việt thuộc Sở, đánh nhau ròng rã cả 1000
năm, sau đến thời Xuân Thu thì còn vài trăm mà thôi và đến thời Chiếc Quốc thì
còn dăm bẩy trự, sau nhà Tần nuốt trọn thống nhất Trung Quốc thu gom về thành
một mối, nếu ông "Một Trương" mà xuất hiện vào thời kỳ này chắc chết
mất xác đàn địch cái nỗi gì. Sau đó thì sách báo bị Tần Thủy Hoàng mang
đốt hết, vì mấy năm đó thời tiết lạnh kinh khủng, tuyết rơi cả ngày đêm, đốt
hết mọi thứ mà dân chúng bá tánh không ấm, thôi thì trong lúc lâm nguy cứu rét,
nhà nào có sách vở thơ văn tiểu thuyết chi đó thì cứ mang ra mà đốt để sưởi cho
ấm, mai mốt không rét nữa thì chúng ta tha hồ mà viết sách làm báo, thành ra
nếu có vị nhạc sĩ nào chơi Hồ Cầm thuộc vào danh sư thì cũng chả ai mà biết
tới, loạn lạc liên miên, chỉ có thời nhà Đại Đường là thơ phát triển, hy vọng
có Mr "Một Trương", nhưng vào giai đoạn Giữa Đường "tức là thời
Trung Đường" thì Tiết Độ Sứ An Lộc Sơn ở không cũng buồn, bèn nổi
loạn giết bá tánh nhà Đại Đường một lúc dân số đến một nửa nước, chắc vị
"Một Trương" nếu có thì cũng thác trong giai đoạn tai bay vạ gió
này.
Qua thời kỳ Tống Nguyên,
dân số Ba Tàu khoảng 200 triệu, dân Mông Cổ (tức là Nguyên Chủ) ra lệnh
cho toàn quân được quyền giết dân Ba Tàu tự do. Sau 90 năm cai trị, nhà
Nguyên đi đoong, Chu Nguyên Chương lên làm vua nhà Đại Minh cho kiểm tra dân
số, thì lúc đó dân Ba Tàu chỉ còn 65 triệu, phần còn lại thì phiêu diêu miền cực
lạc hết trọi, chắc là trong thời kỳ nhà Mông Cổ Mông Đít cai trị không có tiên
sinh. Sách báo tham khảo thì không có, Tư Liệu, Công Liệu, Tài Liệu thì
cũng không. Chả lẽ bó tay? Thế là tôi lên đường một chắc bằng hai bàn tay
không, trước khi đi vào thẳng vấn đề, chúng tôi xin vòng vo ra ngoài lề một
chút, bản thân gia đình chùng tôi ở tỉnh Quảng Yên (trước là Quảng An
Châu) rồi là Hồng Quảng, rồi là Quảng Ninh, bây giờ là Hạ Long, 1/3 tỉnh này có
châu Vạn Ninh (tức là Móng Cái) là vùng đất tiếp giáp với quận Đông Hưng (Tông
Hưng) của tỉnh Quảng Tây, đất này ngày thời nhà Đại Lý của ta cho dân Nùng (bộ
hạ của quốc vương Nùng Trí Cao đánh nhau với nhà Tống bị thua tạm
trú) y như thời nhà Nguyễn cho di thần nhà Minh định cư ở Miền Nam
vậy. Muốn tìm ra ngọn nguồn của Mr "Một Trương" mà tìm trong tư liệu
thì đến tết Congo cũng chưa chắc tìm ra manh mối, mà phải nói cái chuyện tiếng
Ba Tàu. Dân Nùng là dân thuộc tỉnh Quảng Đông, nhưng định cư ở đất Việt
Nam sát nách ngay biên giới tỉnh Quảng Tây (tức Quảng Si). Tuy ở đâu
thì người Nùng cũng nói giọng và tiếng Quảng Đông (pha chút tiếng địa phương)
và người Ba Tàu vốn là dân Đa Văn Hóa, nói sao cũng hiểu
được, ví dụ :
Về nhà ăn cơm "Xực
Phàn Pán Nhể"
Nguyên Chữ là
"Xực Phàn Hồi Gia"
Dịch nghĩa là
"Ăn Cơm Về Nhà"
Hiểu theo chữ Việt là
"Về Nhà Ăn Cơm"
Nhưng người Ba Tàu thì
Pán Nhể, hay Pán Sẻ cũng có nghĩa là Về Nhà, mà Xực Phàn, Xực Phan hay Xực Phạn
cũng đều có nghĩa là ăn. Chữ Hành, Chữ Hàng chữ Hãng đều là một chữ, tùy theo
nó đi với ai... mà thành ra Ngân Hàng, Bộ Hành, Hãng Xưởng.
Trở lại truyện Kim Vân
Kiều của Tố Như tiên sinh, chúng tôi nhận ra như sau khi tả về anh hùng Từ Hải:
Gươm đàn nửa gánh giang
sơn một chèo
Có nghĩa là khi đi đâu,
trên vai của anh hùng Từ Hải có vác một thanh gươm, có bao gươm đàng hòang,
trên bao thanh gươm có treo một cái đầu quang trong cái quang có một cái
thúng đựng một cây đàn "chưa biết là cây đàn gì ?" còn tay còn
lại là cầm một cái Bơi Chèo. Cướp ở bên Ba Tàu cũng chia ra nhiều loại, ở trên
Núi là Sơn tặc, mạn dưới sông dưới biển là Thủy Tặc, hay Thủy khấu, còn
giặc ở Lương Sơn Bạc thì vừa núi vừa sông, muốn kêu sao cũng được, nhìn qua bộ
dạng của tướng cướp Từ Hải thì phải nhận ngay ra rằng, ông thuộc vào loại
Thuỷ Tặc (giặc ở dưới nước), và trong tay thủ sẵn một cái "Bơi Chèo"
Không rõ khi chưa xuống
Nước hành sự nghề Thủy Khấu thì trên cạn tiên sinh dùng thứ vũ khí gì ? Theo sự
suy đoán riêng của chúng tôi, thì lúc đó Từ Hải dùng một ngọn côn dài 6 thước
Tàu bằng 2 thước Tây làm vũ khì tùy thân, Côn hay Gậy hay Trượng là một
loại vũ khí gọi thì khác nhưng chỉ là một thứ, có khi bằng gỗ có khi bằng
sắt, các vị đại sư thì gọi nó là Thuyền Trượng như trường hợp của của Lỗ Đề
Hạt, hoặc thêm cái ngù đầu con rồng ở trên của Kim Hoa Bà Bà thì là Long
trượng, của Dương Quá thì là Thiết Huyền Trượng, nói nôm na là Chiếc Gậy “Tiếng
3 Tàu thì chữ Trưởng (là lớn) chữ Trường là (dài) cũng chỉ là một chữ,
thành ra Trương, Trượng
Cũng chỉ là một chữ mà
thôi, thành ra khi làm Sơn Tặc (tức Giặc trên Núi) thì anh hùng Từ Hải dùng tay
cầm Trượng, gọi là"Một Trượng" Trượng này trung bình nặng từ 50 ký lô
trở lên, không ai hai tay cầm hai trượng, Một Trượng hay Một Trương
"Giống y nhau" , sau khi chuyển địa bàn làm ăn từ Núi xuống Nước thì
dẹp Trượng mà dùng Bơi Chèo
Tức "Một Chèo"
nhưng thiên hạ quen gọi Từ Hải là "Một Trượng" hay "Một
Trương" nó quen miệng rồi ? mặc dù bây giờ người anh hùng đã chuyển vũ khí
chuyên dùng là Chèo. Giang sơn Một chèo
Các bậc Thức giả, Ngủ
giả có vị nào cần dạy bảo xin email về địa chỉ ở trên .
BỊ VONG LỤC "MỘT
TRƯƠNG"
Nghề riêng ăn đứt Hồ Cầm
một chương
(Đoạn Trường Tân Thanh)
Theo ý của kịch thi sĩ
Phan Khắc Khoan thời tiền chiến, thì câu thơ này phải như sau :
Nghề riêng ăn đứt Hồ Cầm
một Trương.
Bản Kiều thông dụng là
Một Chương "tức là một Xoang là một phiên khúc trong nhiều phiên khúc của
một bản nhạc", chẳng hạn như bản Nhạc Khúc Bạc Mệnh" thì có khúc
Lưu Thủy Hành Vân, Khúc Kê Khang, khúc Quảng Lăng... còn phần phát hiện của thi
kịch sĩ Phan Khắc Khoan thì lại là tên của một nhân vật Ba Tàu có tài khẩy Hồ
Cầm số dzách, bài trước chúng tôi cố tìm tiều sử và gốc gác của nhân vật nào là
Một Trương thì cũng đã cố gắng trình làng được là đó là nhân vật Từ Hải. Còn
chuyện nàng Vương Thúy Kiều tài sắc vẹn toàn, nếu đi thi Hoa Hậu chắc là được
đội vương miện hoa hậu là cái chắc, nhưng đây chỉ nói đến cái tài khẩy đàn mà
thôi, nếu cho Hồ Cầm là cây đàn thì giáo sư tiến sĩ về âm nhạc Trần Văn Khê cho
thi hào Nguyễn Du chỉ biết làm thơ mà không biết chi về âm nhạc cả, theo giáo
sư Khê thì Hồ Cầm có xuất xứ từ rợ Hồ (tức Mông Cổ hay Hung Nô) bà con với loại
đàn này là đàn cò, đàn gáo, đàn sến, đàn nhị Hồ , đàn Nguyệt... đều là loại
nhạc cụ chỉ có hai dây, một dây âm một dây dương có nghĩa là một dây to và một
dây nhỏ, như khi Kiều đàn cho Chàng Kim Trọng nghe: ... treo sẵn Cầm
Trăng
Cầm Trăng là đàn Nguyệt
(2 dây) nhưng nàng Kiều :
"So dần dây vũ dây
văn
Bốn dây to nhỏ theo vần
cung thương "
thì hóa ra thi hào
Nguyễn Du diễn tả thành cái đàn Tỳ Bà. Nếu trong truyện Kiều mà Nguyễn Du cho
Hồ Cầm là một bản nhạc của Người Hồ thì Nguyễn Du đúng, ngược lại ý Nguyễn Du
Hồ Cầm là một nhạc cụ thì Nguyễn Du sai. Ở đây chúng tôi không bàn về
vấn đề này, vì đã có nhiều người bàn rồi, chuyện đúng hay sai thì vẫn còn đó,
mà chuyện chúng tôi đang nói là nhạc sĩ Một Trương tức Một Chèo, tức Từ Hải, vị
anh hùng hào kiệt xuất thân là thủy khấu này chơi Hồ Cầm ra sao ? Để tránh hiểu
lầm Hồ Cầm mà Một Trương chơi đây là cây đàn, "gươm đàn nửa gánh giang sơn một
chèo", đại thể minh họa
ra thì anh hùng Từ Hải trên vai vác một thanh kiếm, hông đeo thanh kiếm treo
lủng lẳng một cây đàn không rõ là cây đàn gì ? Còn một tay thì cầm chiếc bơi
chèo" ngày xưa là Một Trượng Một Trương bây giờ là Một Chèo, ngang hông thì buộc tòng
teng một bầu rượu. "Tiếng Hán là Hồ Rượu " đường trường rong
ruổi, người anh hùng đôi khi ngồi nghỉ mệt, nhìn trời bằng nửa con mắt, đưa Hồ
Rượu uống một hơi chưa đã, uống hết trọi. Rồi nhìn mây bay gió thổi, cao hứng
lấy đũa gõ vào Hồ Rượu rồi cất
tiếng ca hào sảng, Từ Hải cũng chơi Hồ Cầm nhưng ở đây chúng ta phải hiểu là
như vầy :
Hồ là Hồ Rượu
"hay Bầu Rượu "còn Cầm là tiếng Nôm" tiếng Việt "tức là cầm
hồ rượu trên tay mà tu ừng ực vào mồm, khi hết rượu thì cầm cái que hay cầm cái
đũa mà gõ vào Hồ Rượu mà ca hát có tính cách nghiệp dư mà thôi ? Ta hát ta
nghe không làm phiền đến người khác, không phải là nhạc sĩ chuyên nghiệp như
nàng Thúy Kiều, với tài nghệ chơi Hồ Cầm kiểu đó thì nàng Vương Thúy Kiều ăn đứt
là phải ? Đây là diễn tả theo cái ý của thi kịch sĩ Phan Khắc Khoan đã ra người
thiên cổ địa cổ, theo thâm tâm của chúng tôi các vị như Nguyễn Đổng
Chi đúng là một vị học giả uyên thâm, kế đến là học giả Nguyễn Huệ Chi là
một vị uyên Bác, và sau chót là học giả An Chi qua các bài viết của tiên sinh
thi đúng là một vị uyên Chú (chú đây là chú giải chú thích thật là logic va
tuyện hảo).
Còn cái chuyện một
chương "một xoang " là chuyện Cổ Điển "không sai Một ly ông cụ
nào cả" Tuy nhiên với cái đà tiến bộ của nhân loại và dân tộc thì cái
chuyện phát hiện ra thì rằng là Một Trương là tên người của thi kịch sĩ Phan
Khắc Khoan cũng đáng nên biểu dương khuyến khích. Chuyện Bò Trắng Răng là cái
chuyện muôn đời chả làm cho ai sống mà cũng chả làm cho ai chết. Ngay Tây Đen
mà cũng không ai chết. Chỉ có buồn là người đưa ra vấn đề Một Trương là một
nhạc sĩ thì lại đã chết. Chừ biết trao đổi chia sẻ vấn đề này với ai ?
Chu Vương Miện
Trả lờiXóahttp://i216.photobucket.com/albums/cc273/HuynhHue_bucket/Happy%20New%20Year/Happy%2021_zpsppx02eg1.gif