Trang

Thứ Ba, 11 tháng 1, 2022

NHÀ THƠ XUÂN DIỆU “MA VỚI NHAU” - Minh Diện.


Nhà thơ Xuân Diệu

Cuối năm 1983, Công ty cao su Dầu Tiếng tổ chức Hội nghị tổng kết cuối năm. Năm ấy phân u-re được Liên Xô cấp, mủ cao su được Liên Xô bao tiêu, công ty này trở thành điển hình tiên tiến toàn ngành, nên tổ chức Hội nghị tổng kết to. Trưởng phòng thi đua - tuyên truyền Nguyễn Hữu Bằng lên Sài Gòn mời nhà báo, miệng bô bô: “Ngoài đánh chén, còn có một sấp vải  Seviot  may quần, một sấp vải KT may áo, một kg bột ngọt và một phong bì 50 đồng  nghe!”.  Món quà đó ngày ấy bằng hai tháng lương chuyên viên một của tôi, hơn nữa có tiền chưa chắc đã mua được vải Seviot, KT, bột ngọt theo tiêu chuẩn phân phối.
 
Cánh phóng viên bàn tán lao xao trong khuôn viên Câu lạc bộ Hội nhà văn thành phố ở đường Trần Quốc Thảo, và đến tai nhà thơ Xuân Diệu đang uống cà phê sáng tại đó. Ông vào Sài Gòn cùng giáo sư Hoàng Như Mai tổ chức ‘sô’ nói chuyện thơ, nhưng ế lắm. Nhà thơ Xuân Diệu vẫy Trưởng phòng Nguyễn Hữu Bằng tới, bảo cho ông một suất dự Hội nghị tổng kết cuối năm với công ty. Anh chàng Trưởng phòng tuyên truyền hơi lưỡng lự, nhưng rồi mở cặp, lấy tờ giấy mời viết, đưa cho Xuân Diệu. Mấy nhà báo chúng tôi được vinh dự tháp tùng nhà thơ  lớn nổi tiếng, rất hãnh diện.
 
Một phó giám đốc thay mặt công ty đón tiếp chúng tôi, phát cho mỗi người một bản tổng kết thành tích dày cộp, đựng trong túi với tờ lịch của công ty. Nhà thơ Xuân Diệu cầm chiếc túi xăm soi, rồi hỏi:
 - Thế quà đâu?
 Anh Bằng nói:           
- Quà sẽ đưa sau ạ!
Chúng tôi nhìn nhau ngượng đỏ mặt. Không ngờ nhà thơ tình nổi tiếng lãng mạn lại hiện thực xã hội chủ nghĩa như vậy.
 
Hội trường trang trí rất đẹp, có hoa tươi, sân khấu, loa phóng thanh đầy đủ. Đại diện lãnh đạo tỉnh Sông Bé, Đồng Nai, Tây Ninh, huyện Dầu Tiếng và các ban ngành Tổng cục cao su cùng hàng trăm lao động tiên tiến của công ty ngồi kín các hàng ghế. Trong khi chờ đợi khai mạc Hội nghị, anh Bằng trân trọng giới thiệu nhà thơ Xuân Diệu lên đọc thơ. Bằng nói rất rõ là đọc những bài thơ tình tuyệt tác! Một tràng pháo tay rất dài, có ngưới đứng lên để nhìn cho rõ nhà thơ Xuân Diệu nổi tiếng.
 
Nhà thơ Xuân Diệu mặc bộ véc cũ, không thắt caravate, đeo kính dâm, tóc xòa kín cổ bước lên sân khấu ngẩng mặt, nghiêng người đón tràng pháo tay, rồi cầm Micro, nói giọng trầm, bổng:

- Dân tộc Việt Nam đã sinh ra một Nguyễn Du ,để rồi: “Bất tri tam bách dư niên hậu. Thiên hạ hà nhân kháp Tố Như!”.  Không, hôm nay tôi không nhỏ lệ vì cuộc đời trăm năm rách nát với văn chương ấy, mà cùng mọi người cất tiếng hát, tiếng reo vui giữa rừng thơ Tố Hữu...
 
Xuân Diệu ngả người chờ tiếng vỗ tay. Tiếng vỗ ran lên, ông mỉm cười đón nhận. Chờ tiếng vỗ tay đứt, và mọi người yên lặng , ông cất tiếng  đọc bài thơ “Cá nước”, với chất giọng sang sảng. Tiếp theo là bài thơ “Sáng tháng năm” 
 
Bọn tôi cứ tưởng Xuân Diệu đọc mấy bài thơ của Tố Hữu và mấy bài thơ của mình rồi nhường sấn khấu để khai mạc hội nghị, nào ngờ ông thao thao bất tuyệt phân tích tính đảng, tính quần chúng, tính hiện thực xã hội chủ nghĩa, tính nghệ thuật trong thơ. Cái đầu ông lắc lư, hai tay vung vẩy, hai chân nhún nhẩy, như nhập đồng. Chín giờ, rồi chín giờ ba mươi, ông vẫn nói. Hai mép đùn ra hai cục bọt trắng như bọt xà phòng.

Ông Tư Nguyện, nguyên Bí thư tỉnh ủy Sông Bé thời chiến tranh, lúc đó làm Tổng cục trưởng cao su, ngồi trên hàng ghế đầu nhập nhổm như bị kiến cắn! Cái trán hói bóng lưỡng đỏ tía lên. Ông đã không hài lòng khi anh Bằng tự tiện làm cái việc trái khoáy mời nhà thơ bình thơ trong Hội nghị tổng kết, giờ thấy nhà thơ  Xuân Diệu chiếm sân khấu nói tràng giang đại hải, nên rất bực. Nhà báo Phạm Lân thấy bất ổn, nháy Bằng lên mời Xuân Diệu xuống. Bằng lên nói nhỏ vào tai  Xuân Diệu: “Quá giờ khai mạc rồi, mời bác nghỉ thôi!”. Chẳng biết Xuân Diệu có nghe rõ không, vẫn cầm Micro bình thơ.
 
Một tình huống xảy ra làm mọi người ngỡ ngàng. Ông Tư Nguyện đứng dậy, xăm xăm bước lên sân khấu, giật phắt chiếc Micro trong tay nhà thơ Xuân Diệu. Rồi ông tuyên bố khai mạc Hội nghị tổng kết. Nhà thơ Xuân Diệu lầm lũi bước xuống, không có tiếng vỗ tay nào. Chúng tôi tưởng Xuân Diệu tự ái, nhưng không, ông vẫn ở lại ăn uống thoải mái và nhận phần quà rồi mới về.
 
Xuân Diệu là một người như vậy. Ngoài làm thơ ông coi diễn thuyết là một cái nghề. Nhà văn Tô Hoài đã viết trong “Cát bụi chân ai” như vầy: “Xuân Diệu hay đi nói chuyện thơ. Xuân Diệu có kế hoạch chăm chút bảy tám bài, nói khắp nước cũng ‘tủ’ ấy. Đã trau dồi đến thuộc làu, chỗ nào giơ tay, chỗ nào nghiêng phải, nghiêng trái, lên giọng nhấn mạnh, chỗ nào đợi vỗ tay, đợi cười và mình mỉm cười!”.
 
Trong bảy, tám bài tủ của  Xuân Diệu, ngoài ca ngợi Hồ Chí Minh, là nịnh Tố Hữu và các quan chức lớn của đảng. Xuất thân từ phong trào thơ mới, là thành viên trong nhóm “Tự lực văn đoàn”, từng được Hoài Thanh ca ngợi là “Ông hoàng của thơ tình”, Xuân Diệu đoạn tuyệt quá khứ theo cách mạng, nên phải “lựa ánh sáng trên đầu mà thay đổi sắc phù sa” như Chế Lan Viên đã suy ngẫm. Xuân Diệu đã nâng tài nịnh hót thành nghệ thuật ngang với nghệ thuật làm thơ tình lãng mạn của ông để lấy lòng lãnh đạo, hưởng bổng lộc.
 
 Trong tư liệu về phong trào “Nhân văn - Giai phẩm”, một nhóm tác giả đã nhận xét về Xuân Diệu: “Nhà thơ đã lợi dụng uy tín cá nhân của mình, và khai thác các mối quan hệ có quyền hành trong đảng ...”. Còn nhả thơ Nguyễn Bính thì khẳng định: “Xuân Diệu và Huy Cận là một đôi đầy quyền lực trong lãnh vực văn hóa văn nghệ!”.
 
Lợi lộc mà Xuân Diệu giành được rất nhiều, xin chỉ đơn cử vài thứ làm bằng chứng: Tập thơ Ngôi Sao của ông theo đánh giá của nhiều nhà phê bình rất nhiều khiếm khuyết, ông đã ép Nhà xuất bản Văn nghệ phải in sớm để dự thi. Và trong đợt xét giải thưởng văn học 1954-1955, ông trong Ban giám khảo, đã đưa tác phẩm của mình vào, tự chấm giải cho mình.
 
Trong những năm tháng phong trào “Nhân văn - Giai phẩm” bị đàn áp, số phân nhiều văn nghệ sỹ bị đồn vào đường cùng, như nhà văn Phùng Quán nhớ lại: “Bao nhiêu cuộc đời bị rạn vỡ, bị ruồng bỏ, và bị lưu đày” thì Xuân Diệu hơn hớn hưởng hạnh phúc. Ông được cấp nhà cao cửa rộng, phiếu thực phẩm Đông Hồ, và hường chế độ ưu tiên cán bộ trung cao.
 
Ngày ngày sau giờ làm việc, Xuân Diệu đạp xe đến cuối đường Bà Triệu, nơi có những hàng dạ lan hương thơm lừng cả một góc phố, gửi hồn vào những vần thơ tình cho một người con gái ông đang yêu:
 
“Tôi cầm mùi dạ lan hương.
 Trong tay đi đến người thương cách trùng.
 Dạ lan thơm nức lạ lùng.
 Tưởng như đi mãi không cùng mùi hương!”
 
Dù đã 40 tuổi, và mang “thuộc tính PĐ”, bất lực trong quan hệ nam nữ, ông vẫn tham cái hạnh phúc trời không cho mình hưởng. Sự tham lam ấy đã được một quan chức cao cấp, ông  Hoàng Tùng, Tổng biên tập báo Nhân Dân, nhiệt tình khuyến khích và giúp đỡ . Và ông đã cưới một cô gái trẻ đẹp là phóng viên của báo Nhân Dân làm vợ. Để rồi làm người con gái ấy phải qua một đời chồng chỉ trong vòng 6 tháng!
 
Ngày đó đi nước ngoài khó hơn lên trời. Nhưng Xuân Diệu cắp cặp đi liên tục. Những “Ký sự nước Hung 1959”, “Ký sự Triểu Tiên 1960” đều là kết quả của những chuyến công du nước ngoài. Liên Xô, Trung Quốc, Tiệp khắc, nơi nào ông cũng được đi. Các nhà văn nhà thơ khác, lên kế hoạch ba, bốn năm chưa chắc được in chung một tác phẩm, Xuân Diệu viết tác phẩm nào in ngay tác phẩm đó. “Ba thi hào dân tộc” 1959, “Riêng chung” 1960, “Phê bình giới thiệu thơ”1960, “Một khối hồng”...
            
Nhờ nịnh hót mà Xuân Diệu được chức, được quyền, được, tiền, được tình. Nếu Xuân Diệu nịnh hót chỉ để kiếm chút bổng lộc như vậy, dù không hay ho, cũng không đáng trách. Đằng này ông lại vào hùa đánh anh em bạn bè đồng nghiệp.
 
Đầu năm 1955, giới cầm bút lăn lộn trong rừng về , sôi nổi phê bình tập thơ Việt Bắc của Tố Hữu. Trong khi Hoàng Yến, Hoàng Cầm, Tử Phác chê tập Việt Bắc ít vốn sống thực tế, nghệ thuật chưa phong phú, không đột phá vào một khía cạnh nào của tâm hồn thật sắc bén, thì Xuân Diệu khen hết lời. Ông viết: “Mới chỉ nhìn qua, đó chỉ là một bìa sách sáng tươi, trang nhã giữa bao nhiêu bìa sách khác,nhưng tập sách gọn gàng kia quả là đánh dấu một việc lớn của văn chương nước Việt Nam”. 
 
Xuân Diệu ca ngợi Tố Hữu:“Một nhà thơ con đẻ của cách mạng, lớn lên với cách mạng, và là kết tinh của cách mạng”. Ông cho rằng Tố Hữu đã mở lối dẫn dắt cả một thế hệ nhà văn, nhà thơ Việt Nam thoát ra khỏi vũng lầy tăm tối: “Trong khi các nhà thơ đắm chìm trong phong trào ‘thơ mới’ mơ mộng, than khóc, u sầu, Tố Hữu đã đi tiên phong hát những bài ca tranh đấu!”Một trong những bài thơ tranh luận gay gắt nhất là bài “Đời đời nhớ ông”.

Trong khi Hoàng Cầm, Tử Phác, Hoàng Yến cùng cho rằng Tố Hữu thương vay khóc mướn, và bi lụy hóa tình cảm của nhân dân Việt Nam trước cái chết của Stalin, thì Xuân Diệu viết: “Stalin mất, những dòng nước mắt của nhân dân ta đã chảy thành những câu thơ ‘Đời đời nhớ ông’ của Tố Hữu”.

Xuân Diệu ca theo Hoài Việt: 

“Thật là vinh dự cho những kẻ cầm bút chúng ta. Vinh dự vì đã có một Tố Hữu. Tôi đọc ký sự Ngụy Nguy, thấy chỉ trong chế độ của chúng ta mới có những văn nghệ sỹ ưu tú như thế!”.

Bài diễn thuyết của Xuân Diệu nổi bật trong cuộc tranh luận, củng cố niềm tin vũng chắc vị trí giải nhất tập thơ Việt Bắc của Tố Hữu , đồng thời tố cáo những “quan điểm lệch lạc” của một số đồng nghiệp. Trần Dần, Tử Phác bị giam ba tháng để kiểm điểm trong cuộc phê bình đó.
 
Trung Quốc nổ ra phong trào: “Bách hoa vận động” (Trăm hoa đua nở), và bầu không khí cởi mở từ Trung Quốc  đã tràn sang Việt Nam. Những văn nghệ sỹ trong nhóm nhân văn  như Nguyễn Hữu Đang, Trần Dần, Lê Đạt, Phùng Cung, Hoàng Cầm... phấn khởi, cho tái bản Giai phẩm mùa Xuân, rồi cho ra đời Giai phẩm mùa Thu, Giai phẩm mùa Đông và báo Nhân Văn.

Nhà thơ Trần Dần cho đăng bài “Nhất định thắng” với những câu thơ đa nghĩa :
 
“Tôi đi giữa trời mưa đất Băc
Đất hôm nay tầm tã mưa phùn
Bỗng nhói ngang lưng
máu nhỏ xuống bùn
Lưng tôi có tên nào chém trộm?
 
Hoặc:
                                
“Tôi bước đi
không thấy phố
không thấy nhà                                  
chỉ thấy mưa sa                                  
trên nền cờ đỏ!”
 
Và Lê Đạt có những câu thơ nhạy cảm:
 
“Những kiếp người sống lâu trăm tuổi
Y như một dãy bình vôi
Càng sống càng tồi
Càng sống càng bé lại!”
 
Hay:
                               
“Nhưng đem bục công an                                
đặt giữa tim người                                 
bắt tình cảm ngược xuôi                                 
theo luật lệ đi đường nhà nước!”
 
Văn nghệ sỹ cả nước mừng rỡ, cứ tưởng được cởi trói. Nhưng đó là lần mừng hụt phải trả giá đau đớn nhất của họ. Cái gọi là “Bách hoa vận động”, Mao Trạch Đông cho dấy lên ở Trung Quốc lả cái để lừa phe tạo phản. Khi bọn Tào Ngu, Tề Bạch Chính lộ mặt, lập tức cái bẫy của Mao sập xuống, dìm vào bể máu. Tác động dây chuyền sang Việt Nam, Huy Cận, người bạn thân nhất của Xuân Diệu được cử sang Trung Quốc học tập kinh nghiệm về áp dụng dẹp nhóm “Nhân văn - Giai phẩm”.
   
Liên tiếp các cuộc kiểm điểm, đấu tố được tổ chức ở Thái Hà ấp, rồi những bài báo lên án “Nhân văn - Giai phẩm” được đăng trên các tờ báo, đài phát thanh, những cuộc mít tinh của quần chúng phản đối “bọn phản động  Nhân văn - Giai phẩm” rầm rộ, và công nhân nhà in tổ chức bãi công không in báo Nhân Văn.
 
Khi “Trăm hoa” đang “đua nở”, Xuân Diệu tạm nằm yên ít lâu chờ thời, giờ ông lại vùng dậy múa gươm chém xối xả. Trong số 30 bài báo tập trung đánh nhóm “Nhân văn - Giai phẩm”, tờ Văn Nghệ của Hội nhà văn, do Xuân Diệu làm biên tập chính, đăng liên tiếp 6 bài trong 12 số báo, cứ hai số một bài. Những bài báo sắc lẻm như lưỡi dao chém thẳng vào những người từng là bạn bè như Quang Dũng, Trần Dần, Phùng Quán, Hoàng Cầm, Văn Cao, Đặng Đình Hưng...             
“Xuân Diệu cho đăng những bài báo theo sự chỉ đạo trực tiếp của anh Lành. Có bài anh Lành trực tiếp sửa từng câu!”.
 
Năm 1996, nói chuyện với Nhật Hoa Khanh ở biệt thự 76 Phan Đình Phùng, Hà Nội, nhà thơ Tố Hữu - anh Lành - khi đã hết quyền hành, tâm sự: 

“Tôi đặc biệt cảm ơn nghệ sỹ Hoàng Cầm về những lời phê bình sắc sảo, chính xác và chân thực của anh bốn mươi năm trước”. “Tôi khâm phục tài năng và ý chí của nghệ sỹ Đặng Đình Hưng, đối với tôi cuộc đời anh Hưng là một bài giảng cao cấp về niềm tin ở sự thật!”; “Văn Cao là một trong những nhạc sỹ lớn nhất!”; “Quang Dũng là một trong những cánh chim đầu đàn của nền thơ cách mạng Việt Nam thế kỷ 20, sau Quang Dũng là Hoàng Cầm, Trần Dần, cũng là cây bút hạng nặng. Ngoài ra còn phải kể thêm Hữu Loan, Lê Đạt, Phùng Quán là ba nhà thơ, ba vẻ khác nhau, nhưng cũng sắc sảo, nóng bỏng tính chiến đấu không kém phần lãng mạn. Nhà văn Phùng Cung cũng cần phải được minh oan với truyện ngắn “Con ngựa già của Chúa Trịnh”, không có ẩn ý gì xấu như bốn mươi năm trước đã bị một số người lầm tường”
 
Người ta bảo: “Tố Hữu là kẻ muối mặt nói dối không biết ngượng”.  
Ngày ấy, không ai khác mà chính là Trường Chinh và Tố Hữu ra tay đánh “Nhân văn - Giai phẩm”. Chủ trương đánh rất bài bản, theo cách đánh của Mao Trạch Đông, chứ không “lầm tưởng” như ông nói. Trường Chinh đánh vì mục đích chung, Tố Hữu còn vì “trả thù những người chê thơ mình, và không muốn nhà thơ nào làm thơ hay hơn mình”

Tố Hữu đã kết tội nhóm “Nhân văn - Giai phẩm” là: 

“Chúng vu khống Đảng ta là chủ nghĩa phong kiến, là phi dân chủ, chúng muốn lật đổ chính quyền cách mạng của chúng ta!” và kêu gọi: “Lấy đường lối văn nghệ của Đảng lao động Việt Nam làm vũ khí chiến đấu, giới văn nghệ chúng ta hãy tiến lên tiêu diệt tận gốc đường lối văn nghệ phản động của nhóm ‘Nhân văn - Giai phẩm”.
 
Theo lệnh Tố Hữu, Xuân Diệu xông lên, lấy diễn đàn làm trận địa, Micro làm vũ khí, trổ tài hùng biện của mình, tiêu diệt tận gốc nhóm “Nhân văn – Giai phẩm”Trên diễn đàn Xuân Diệu phê phán: “Những tác phẩm mắc bệnh sơ lược”.  Ông nói: “Những tác phẩm đó đã gây tác hại là làm cho người ta hiểu sai thực tế, tưởng cách mạng toàn tô hồng, gây chủ quan và thiếu lý tưởng”. Ông đổ tội cho nhóm “Nhân văn - Giai phẩm” :

… “ Họ cho rằng bệnh sơ lược là do bản chất cùa nền văn học mới của chúng ta, cũng như nói tệ sùng bái cá nhân là bản chất của chế độ Xô Viết. Họ gián tiếp muốn nói rằng, Đảng lãnh đạo nhúng tay vào văn học nên văn học mới mắc bệnh sơ lược như thế này, nếu cứ để văn nghệ sỹ hoàn toàn tự do thì văn nghệ đã vô cùng phong phú!”
  
Xuân Diệu cho rằng nhóm “Nhân văn- Giai phẩm” đòi hỏi sự thật là một cách ngụy biện, đi ngược lại đường lối văn hóa văn nghệ của đảng mà Tố Hữu đã trình bày. Nói cách khác đó là muốn bôi đen chống đảng.
 
Xuân Diệu lại múa may, quay cuồng, trên sân khấu Nhà hát lớn, hùng hồn nói về “sự thật” như sau:

“Chúng ta nói những sự thật là có một mục đích, mục đích làm công tác tư tưởng bằng văn học. Nên ta không phải là cầm cái máy ảnh tốt rồi bất cứ cái gì cũng chụp ảnh, cũng in ra. Chúng ta không hoàn toàn theo chủ nghĩa thành thật. Vì chủ nghĩa đó chỉ đúng có một nửa. Nhất định những thơ văn nào chúng ta viết ra đều là tâm huyết của ta, đều là thiết tha, thành thật với đảng, với Bác Hồ ...”.
             
Xuân Diệu kịch liệt phê phán tác các tác phẩm: “Tiếng sáo tiền kiếp” của Trần Duy, “Một trò chơi nguy hiểm” của Nguyễn Thành Long, đặc biệt lên án “Nhất định thắng” của Trần Dần; “Nhân câu chuyện mấy người tự tử” của Lê Đạt,“Vượt Côn Đảo” của Phùng Quán, “Những đồi hoa sim” của Hữu Loan.
Một mình một diễn đàn, không ai có quyền tranh cãi với Xuân Diệu. Xuân Diệu hả hê nói, hả hê cười, hả hê chiến thắng.
 
Lần lượt những trí thức, văn nghệ sỹ nổi tiếng như: Trần Đức Thảo, Nguyễn Hữu Đang, Phan Khôi, Hoàng Cầm, Lê Đạt, Trần Dần, Phùng Quán, Trần Lê Văn, Hữu Loan, Trần Duy, Trương Tửu, Bùi Quang Đoài, Trần Công, Tử Phác, Hoàng Huế, Thụy An, Nguyễn Sáng, Sỹ Ngọc, Nguyễn Viết Lãm, Tất Vinh, Nguyễn Văn Tỵ, Văn Cao, Nguyễn Bính... bị mất việc, cấm viết, tù đày .
 
Giữa lúc bạn bè cũ bị ruồng bỏ như vậy, Xuân Diệu được bầu làm Uỷ viên Ban thường vụ Hội liên hiệp Văn học - Nghệ thuật Việt Nam, ông cùng Nguyễn Đình Thi, Hoài Thanh nổi lên như ba ngọn núi trí thức lớn đầy quyền lực.
 
Xuân Diệu là một ông Hoàng thơ tình, nhưng ông Hoàng ấy đã chết từ trước Cách mạng tháng Tám 1945. Từ đó chỉ còn lại một Xuân Diệu hồn thơ nhạt, tứ thơ gượng ép lỏng lẻo. Thay vào chỗ khiếm khuyết của thơ, ông nổi lên tài hùng biện nịnh bợ. Xuân Diệu không hề biết ngượng khi bị ông Tư Nguyện giật chiếc Micro trên sân khẩu tại Hội nghị tổng kết của công ty cao su Dầu Tiếng ngày nào, vì sau đó ông vẫn vui vẻ nhận phần quà. Về cuối đời, Xuân Diệu có gì như tự nhận diện, như sám hối, như thật vơi lòng mình hơn. Trong bài Đa tình, ông viết:
                                       ..
Trong cõi lạnh lan đi bao ấm nóng
Giữa hồn thường thắm thiết một ma thơ
Đem nhớ nhung an ủi dưới trăng mờ
Và trong gió phất phơ đi có bạn …
Kẻ đa tình không cần đủ thịt da
Khi chết rồi, thì tôi sẽ yêu ma ....
 
Phải chăng bầu bạn ông đông, ông không hề lẻ loi, như ông viết:
 
 “Hồn đông lắm tôi sợ gì cô độc!
 Ma với nhau thì ôm ấp cùng nhau!”
 
                                                                                     14-8-2013
                                                                                   MINH DIỆN
 
Nguồn:
https://www.facebook.com/kimthuan.trinh.773/posts/1572497153132996

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

POST HÌNH HOẶC VIDEO CLIP VÀO Ô COMMENT :

Các bạn chỉ việc copy link hình hoặc link video clip dán trực tiếp vào ô comment mà không cần dùng thẻ