Trang

Thứ Năm, 13 tháng 1, 2022

NĂM DẦN 2022 NÓI CHUYỆN CỌP - Gs Nguyễn Châu



Cọp đứng ở vị trí thứ ba trong vòng Tử Vi Trung Hoa, sau Chuột và Trâu. Nói theo sách, thì Dần là Chi thứ ba trong 12 địa chi (Tý-Sửu-DẦN-Mão-Thìn-Tỵ-Ngọ-Mùi-Thân-Dậu-Tuất-Hợi), tượng hình là con cọp.
Trên La bàn Trung Hoa, về không gian, Dần ở phương vị Ðông Bắc, về thời gian Dần là tháng Giêng (trong âm lịch hiện nay), về ngày Dần khởi đầu từ 3 giờ sáng, đến 5 giờ sáng.
 
Về Ngũ Hành (Kim, Mộc Thủy, Hỏa, Thổ), Dần nói chung thuộc Dương Mộc. Nhưng người tuổi Dần tùy theo năm sinh sẽ có Bản Mệnh (hay Mạng) khác nhau:
1.- Giáp Dần (1914 và 1974): mạng Thủy (Ðại Khê Thủy - “Lập định chi hổ” cọp ngồi yên)
2.- Bính Dần (1926 và 1986): mạng Hỏa (Lô Trung Hỏa - “Sơn lâm chi hổ” cọp tại rừng núi)
3.- Mậu Dần (1938 và 1998): mạng Thổ (Thành Ðầu Thổ - “Quá sơn chi hổ” cọp vượt qua núi)
4.- Canh Dần (1950 và 2010): mạng Mộc (Tùng Bá Mộc - “Xuất sơn chi hổ” cọp ra khỏi núi)
5.- Nhâm Dần (1902 và 2022): mạng Kim (Kim Bạch Kim - “Quá lâm chi hổ” cọp đi qua rừng).
 

Năm nay là NHÂM DẦN. Nhâm thuộc Dương. Sách Trạch Cát Thần Bí nói Nhâm là giai đoạn cây cối đang đâm hoa, kết trái, “đang thai nghén” nên khí Dương ẩn tàng trong đất. Sách Ngọc hạp Chánh Tông Luận Mệnh cho rằng “Chữ Nhâm có thể biến thành chữ Vương” khi có cơ hội học hỏi để thăng tiến. Vì vậy người gặp chữ Nhâm thường thông minh và có số cao sang...
 
Về vũ trụ, Nhâm có vị trí ở phương Bắc, thuộc Khảm (thủy). Nhâm Dần, hành Mộc thái quá, không có gì ức chế. Thổ suy, gió to, không gian đầy mây và sương mù nên cây cỏ chẳng được thuận lợi. Mộc thắng Kim có thể đưa đến mất mùa. Về Vận Khí, năm Nhâm Dần: ba mộc hợp lại, Mộc chủ Phong (gió, bão) nhưng không mạnh quá, bị kim lấn át gây ra nhiều xung đột và sự gãy đổ trên thế giới.
 
Về nhân sinh, Nhâm Dần: Mộc hữu dư, Hỏa tư thiên, khí bị nghịch sinh ra nhiều bệnh lạ. Thế giới sẽ rơi vào cảnh phân hóa thù nghịch vì Hỏa khí bốc lên ngùn ngụt. “Tướng hỏa tư thiên” các lò nguyên tử Bắc Hàn và Iran sẽ trở lại và gây nhiều căng thẳng.
 
NGƯỜI TUỔI NHÂM DẦN
 
Về thiên can, NHÂM thuộc Dương Thủy, tính mạnh mẽ, kiên trì, lòng hào phóng ưa che chở, bảo bọc người khác. Tuy nhiên vì thuộc Thủy nên đôi khi tỉ mỉ, chậm rãi và ỷ lại. Nói chung Nhâm Dần là tuổi có hoài bảo và đầy nhiệt huyết. Cuộc sống thường gặp nhiều thử thách cam go cho nên thường nóng nảy, tự cao, tự đại ... thường khó hòa mình với tập thể. Ngay trong bản thân, Nhâm Dần, Mệnh Kim Bạch Kim, nhưng Tuổi thuộc Mộc, Kim-Mộc đã khắc nhau... cho nên cuộc đời thường gặp nhiêu tai ương (tai nạn, vấp ngã, bệnh tật...) Vui ít, buồn nhiều. Cân tu tâm và làm việc thiện. ***
 
CHUYỆN CỌP
 
Cọp là hình tượng xuất hiện khá nhiều trong văn hóa Trung Hoa và Việt Nam, trong lúc các quốc gia khác, đặc biệt là Tây phương, Cọp rất ít xuất hiện.
 
Cọp tiếng Hán gọi là “hổ”. Cọp được xem như là vua của các loài dã thú (thú hoang), được tôn xưng là “Chúa Sơn Lâm”.
 
Thời thượng cổ, người Trung Hoa đã dâng lễ vật cho Hổ vì cho rằng Hổ đã vồ và giết những con lợn rừng. Những lợn rừng này thường hay cày xới tan hoang những cánh đồng khiến dân làng sợ lợn rừng không dám đi cày cấy.
 
Cọp được xếp vào loài động vật thuộc Dương, tượng trưng cho hùng tính. Vì lý do này, trong văn hóa Trung Hoa, Bạch Hổ (cọp trắng) tượng trưng cho Mùa Thu và phương Tây (Phương Tây lại được kết hợp với nguyên lý Âm, thuộc “thư tính”).
 
Cọp còn là biểu tượng của can đảm, dũng mãnh, vì cọp có khả năng tiễu trừ ma quỷ, yêu quái. Có lẽ vì vậy mà người ta thấy hình tượng cọp được khắc chạm lên đá tại các nơi nghi là có ma quỷ và cụ thể là trên một số bia và mộ trong nghĩa địa.
 
Có một số tranh vẽ các vị thần cỡi cọp. Một số tranh khác vẽ hình đứa bé cưỡi cọp dựa theo truyền thuyết vì lòng hiếu, đứa con đã cỡi cọp để bảo vệ không cho nó xâm phạm đến người cha. Treo thanh Hổ là để trấn giữ nhà cửa...chống tà ma.
 
“Trong nhà hắc hổ trấn bùa
Sinh con, sinh cái nuôi cho dễ dàng”
                         (Chuyện Trinh Thử)
 
Ngày xưa, người Việt Nam và Trung Hoa sợ cọp đến nỗi kiêng kỵ không dám nói hay gọi đích danh “cọp” hay “hổ”. Họ phải dùng một cái tên “lóng” (nickname) để ám chỉ Cọp khi muốn nói đến.
 
Người Trung Hoa gọi Cọp bằng tiếng lóng là “da chong” (Ðại Trùng - Big Insect) hoặc “Chúa Sơn Lâm”. Có nhiều vị quan đầu tỉnh đã lập bàn thờ, thay mặt nhân dân, cầu khẩn “Chúa Sơn Lâm hãy trở lại núi rừng và ở lại đó, đừng làm hại dân” và theo truyền thuyết thì cọp đã chấp thuận lời cầu xin ấy rồi rời khỏi làng xóm.
 
Một số chuyện cổ tích Trung Hoa kể rằng “Chúa Sơn Lâm thường nghe theo lời của các nhà cầm quyền” chẳng hạn như truyện một phụ nữ cao niên đã đưa Cọp ra tòa tố cáo cọp đã giết con trai của bà và hiện bà đang bị đói có thể chết. Viên quan tòa quyền lực đã đòi cọp phải ra hầu tòa. Cọp bị kết án là phải cung cấp thực phẩm cho người phụ nữ này cho đến cuối đời bà ta.
Có truyền thuyết cho rằng tại miền Nam Trung Hoa, các dân tộc thiểu số có thể hóa thân thành cọp.
 
Trong văn hóa Trung Hoa, chữ “bạch hổ” là một thành ngữ thông tục ám chỉ người đàn bà “âm hộ vô mao”. “Hổ bộ” (Tiger step) chỉ một trong ba mươi tư thế giao hợp nam nữ trong sách Trung Hoa xưa.
(A Dictionary of CHINESE SYMBOLES - Wolfram Eberhard)
 

Người Việt Nam ở vùng rừng núi hoặc gần rừng núi, hoặc thường phải đi xuyên rừng cũng kiêng không gọi tên thật của cọp. Người ta gọi cọp là “Ông Ba Mươi”, “Ông Mễnh”, “Ông Kễnh”. Ở miền Trung Việt Nam, người ta gọi Cọp là “Ôông” hay “Mệ”. Thành ngữ “xuôi tay cho Mệ nuốt” có nghĩa là buông xuôi, mặc số phận, không phần đấu nữa.
 
Trong các loài vật, cọp được gọi là “ông” một cách lễ độ. Người sợ cọp là vì thấy cọp hung dữ và có sức mạnh phi thường có thể vồ và giết trâu, bò và có khi cả con người.
 
Ở Việt Nam, có tục thờ thần Ngũ Hổ tại các am điện thuộc phái Thiên Tiên Thánh Giáo. Người ở rừng núi thờ Ngũ Hổ cũng như người ở biển thờ Cá Voi để nhờ cậy sự cứu giúp.
 
Thần Ngũ Hổ
 
Ngũ Hổ Tướng Quân là năm vị thần Cọp cai quản năm phương (Ngũ Phương): Đông, Nam, Trung Ương, Tây và Bắc, tương ứng với Ngũ Hành trong tín ngưỡng thờ Mẫu Tứ Phủ.
 
Ngũ Hổ tướng là các vị sơn thần biểu tượng cho sức mạnh thiêng liêng, là bộ hạ của Mẫu, có nhiệm vụ canh giữ cổng vào ra tại các đền, các phủ và tiêu diệt tà ma, đem lại sự cân bằng, yên ổn cho năm vùng phương trời đất.
 

Sau đây là vị trí của “Ngũ Hổ Thần” bao gồm màu sắc, danh xưng (được cấu trúc theo thứ tự: Phương hướng - Thiên Can - Ngũ Hành và Ngũ Sắc)
 
1. Đông Phương Giáp Ất Mộc Đức Thanh Hổ Thần Quan (Cọp xanh)   
2. Nam Phương Bính Đinh Hỏa Đức Xích Hổ Thần Quan (Cọp đỏ)
3. Trung Ương Mậu Kỷ Thổ Đức Hoàng Hổ Thần Quan   (Cọp vàng)
4. Tây Phương Canh Tân Kim Đức Bạch Hổ Thần Quan   (Cọp trắng)
5. Bắc Phương Nhâm Quý Thủy Đức Hắc Hổ Thần Quan  (Cọp đen)
 
Hoàng Hổ đứng đầu trung cung, có nhiều quyền uy, trấn giữ và điều động Bốn phương. Hoàng Hổ Quan vị Tướng Lãnh cao nhất, thâu tóm mọi uy quyền, quyết định âm phù dương trợ cho dân gian.
 
Quan Ngũ Hổ được thờ ở hạ ban trong điện thờ Mẫu, hình ảnh về các ngài cũng thường hay xuất hiện trong các tranh thờ, đặc biệt là bộ tranh dân gian Hàng Trống.
 
NGUỒN GỐC CÁI TÊN “ÔNG BA MƯƠI”         
 
Tại sao gọi cọp là “Ông Ba Mươi”?
 
Cho đến nay, chưa có một thoại nào có tính cách “hợp tình hợp lý”, ngoài truyền thuyết “Phạm Nhĩ náo loạn Thiên Cung bị đày xuống trần gian”. Chuyện kể rằng:
 
Từ ngàn xưa, trên Thượng Giới, có một người có sức khỏe lạ lùng, có thể dời núi lấp biển, đội đá phá cây... không một ai sánh nổi. Về tài phép, ông cũng thần thông biến hóa vượt xa nhiều vị trong Thiên đình. Người này có hai vành tai dài và rách, vì lúc nhỏ ông thường dùng hai tai cho nhiều người móc vào mà đu, rồi xoay họ như chong chóng. Cũng vì thế người ta quen gọi ông là Phạm Nhĩ.
 
Quen thói từ lúc nhỏ vốn tinh nghịch và hung hăng, Phạm Nhĩ không mấy khi ở yên. Ông thường hay gây sự đánh nhau với những kẻ mà ông không thích. Nhưng người ta đều tránh né, chẳng mấy ai dám đọ sức, vì đã từng có bao nhiêu anh hùng không chịu nổi một cú đấm, hoặc cái gạt của ông.
 
Thấy mọi người đều kém tài, Phạm Nhĩ ngày một tỏ ra kiêu căng tự phụ. Ông cho rằng các vị thần chung quanh Ngọc Hoàng chẳng qua chỉ là những kẻ yếu ớt, tài nghệ chẳng được bao nhiêu. Phạm Nhĩ bất mãn vì bấy lâu danh tiếng ông nổi như cồn mà vẫn không được Ngọc Hoàng vời vào để trao cho một chức vị xứng đáng. Mỗi ngày lòng kiêu căng tự phụ của ông một lớn thêm mãi. Cho đến lúc Phạm Nhĩ coi thường cả Ngọc Hoàng, tự cho rằng có sức mạnh và tài phép như ông thì phải làm vua nhà Trời mới phải.
 
Thế rồi chẳng bao lâu ông đã quy tụ một số bộ hạ cũng có sức khỏe và tài phép hơn người, thành một đội quân. Ðội quân này ngày một đông, đã từng gây náo loạn ở Thiên đình, nhưng vì sợ oai Phạm Nhĩ, nên không một ai dám bắt. Cuối cùng, Phạm Nhĩ dẫn đội quân tiến đến Thiên cung đòi đánh Ngọc Hoàng dành quyền cai trị Thiên Ðình.
 
Ngọc Hoàng Thượng Ðế vội vàng sai các Thiên tướng đem quân nghênh chiến. Có đến mười tám vị thiên tướng, vị nào cũng túc trí thần thông, miệng thét ra lửa tay bẻ gẫy cổ thụ, chân đạp đổ núi, nhưng không vị nào đối địch với Phạm Nhĩ được lâu. Chưa đầy mười ngày chỉ còn ba vị sống sót chạy về.
 
Ngọc Hoàng lại sai năm mươi lực sĩ hầu cận, người nào cũng tài ba và sức khỏe, ra chống chọi với Phạm Nhĩ. Nhưng cũng chẳng mấy chốc số người này cũng bại trận. Quân nhà Trời đông, nhưng kéo ra bao nhiêu bị diệt bấy nhiêu, cuối cùng bỏ chạy tán loạn. Thừa thắng, Phạm Nhĩ tiến lên vây chặt Thiên cung.
 
Ngọc Hoàng thượng đế hết sức lo ngại. Theo lời bàn của các triều thần, Ngọc Hoàng vội sai Bắc Ðẩu Tinh Quân đi cầu cứu đức Phật. Ðức Phật sai đức Chuẩn Ðề đi bắt Phạm Nhĩ.
 
Nhưng không ngờ Chuẩn Ðề pháp thuật cao cường mà vẫn không thắng được Phạm Nhĩ, phải bỏ chạy về bạch Phật.
 
Ðức Phật liền đích thân ra tay. Trong lúc Phạm Nhĩ đương hung hăng múa may thóa mạ Ngọc Hoàng và triều thần bất tài bất lực, thì đức Phật đã hiện ra giữa không trung. Phạm Nhĩ vội xông lên toan dùng sức đánh, không ngờ sa ngay vào túi thần của đức Phật, toàn thân co rúm không cử động tay chân được nữa. Thế là ông bị bắt. Phật giao Phạm Nhĩ cho Ngọc Hoàng phân xử, huấn thị là làm cho y hối lỗi chứ đừng giết hại nữa.
 
Ngọc Hoàng bèn đày Phạm Nhĩ xuống cõi trần làm kiếp loài vật. Nhưng trước hết Ngọc Hoàng sai cắt bỏ đôi cánh của ông để tước bớt sức mạnh, sợ bất thần ông lại bay trở về Trời náo loạn. Hơn nữa, Ngọc Hoàng còn lo Phạm Nhĩ vốn mang cốt tướng nhà Trời, có thể nghe hết mọi chuyện bốn phương ngay trong giấc ngủ, mặc dù cách xa hàng ngàn dặm. Bởi vậy để làm giảm bớt trí nhớ của ông, Ngọc Hoàng hóa phép bắt lỗ tai ông mỗi khi tỉnh giấc thì khép kín lại. Tuy nhiên, thể theo lời dặn của đức Phật, Ngọc Hoàng cũng phong cho Phạm Nhĩ làm Chúa tể sơn lâm để an ủi đôi phần.
Từ khi xuống trần, tài phép của Phạm Nhĩ giảm sút đi nhiều vì không còn cánh mà bay. Mặc dầu vậy, ông vẫn còn giữ được một sức khỏe tuyệt trần, khiến mọi thú vật khiếp sợ, xứng với danh hiệu chúa tể mà Ngọc Hoàng phong cho. Cho đến sau này, dòng dõi nhà ông vẫn nối nhau làm chúa sơn lâm. Ngay loài người cũng phải kiêng ông, không dám gọi cái tên “Hổ”, mà chỉ gọi tránh là ông “Ba Mươi”.
 
Gọi là ông Ba Mươi là vì, mỗi khi có người nào săn được hổ thì nhà vua có lệ thưởng cho ba mươi quan tiền vì đã trừ được cho loài người một con thú hung ác. Nhưng vua cũng bắt người đó phải chịu đánh ba mươi hèo để cho vong hồn Phạm Nhĩ được thỏa mà không tác quái nữa.
                                (Theo “Cổ Tích Việt Nam” - Nguyễn Đổng Chi)
 
CỌP TRONG VĂN CHƯƠNG VIỆT NAM
 
Cổ tích Việt Nam có rất nhiều chuyện liên quan đến Cọp. Trong sách “Việt Nam Văn Học Toàn Thư “(Hoàng Trọng Miên) có khoảng 15 chuyện, phần lớn có tính khôi hài, mỉa mai sự ngu khờ của cọp, ca tụng trí khôn con người (Ăn trộm và cọp rình nhà; Cọp mắc đuôi trong bụi dừa nước; Cọp bị đá; Ðút sáp cho cọp ăn khỏi chết; Bầy trâu với cọp; Chuột mộng hóa cọp; Chồn với cọp; Tại sao cọp ăn thịt người; Cọp và chó rừng; Cọp mắc bẫy không ai thèm cứu; một vài chuyện có tính cách huyền bí (Vua Hóa Hổ; Mã Hổ Táng) hầu hết đều không có tính cách ngụ ngôn hoặc chuyên chở đạo lý.
 
Chuyện “Vua Hóa Cọp” xảy ra vào đời nhà Lý. Vua Lý Thần Tôn lên ngôi được ít lâu thì mắc chứng bệnh khác thường, mình mẩy mọc lông như cọp, gầm thét suốt ngày. Danh y trong nước đều bó tay. Bỗng một hôm triều thần nghe bọn trẻ hát rằng “Muốn chữa bệnh vua phải tìm đức Minh Không mới được.”
 
Minh Không là một thiền sư, ở chùa Ðạm Xá, tỉnh Ninh Bình, đệ tử của Từ Ðạo Hạnh, được truyền pháp thuật cho. Khi Từ Ðạo Hạnh sắp chết, có dặn Minh Không rằng “Nay ta thác sinh làm đế vương, nếu mai sau có mắc bệnh gì, ngươi nhớ mà cứu ta với”
 
Quan địa phương tâu lên, triều đình phái người tìm Minh Không và mời vào cung. Minh Không dùng pháp thuật cho đoàn thuyền của quân binh Triều Ðình về thật nhanh rồi vào cung. Các danh y thấy Minh Không ăn mặc tầm thường tỏ vẻ coi nhẹ. Minh Không cầm một cái đinh dài một tấc cắm vào một cai cột trong cung và nói “Ai nhổ được cái đinh này ra thì mới chữa được bệnh vua”. Mọi danh y đều thử sức nhưng không ai nhổ được. Minh Không dùng hai ngón tay rút ra một cách nhẹ nhàng.
 
Minh Không nấu dầu sôi rồi rưới lên mình vua, rưới đến đâu lông rụng tới đó, vua trở lại bình thường. Lý Thần Tông tôn Minh Không làm Quốc Sư, nhưng Minh Không cáo từ ra đi.
 
Chuyện “Mả Hổ Táng” kể rằng vào đời vua Lê, có ông quan là Lý Khắc Cần, đem quân vào rừng lấy gỗ, bị cọp vồ chết. Xác còn nguyên, nhưng quân lính không thể đưa về được vì có cọp ngồi canh giữ. Quan tỉnh đưa quân lên lấy xác, thấy voi và cọp từng đàn vây quanh xác quan, phải bắn súng mới giải tán được. Xác đem về tỉnh chôn cất, nhưng ba ngày sau thấy huyệt trống vì quan tài đã bị voi cọp về quật lên mang vào núi chôn. Con cháu Lý Khắc Cần đến cửa Truông, núi Ðại Ngàn ở ranh giới Hà Tĩnh và Nghệ An thì thấy mộ. Quan tỉnh ra lệnh để yên vì “Mả Hổ Táng” rất tốt sẽ phát làm quan lớn.
 
Trong văn chương hiện đại, vào thập niên 1970, có chuyện “Ông Vua Hóa Hổ” nhưng nội dung hoàn toàn khác với chuyện thời nhà Lý. Chuyện kể rằng:
 
“Vào đầu thế kỷ thứ 20, tại Việt Nam có một ông vua rất mực thương dân, muốn cho dân được ấm no, hạnh phúc và được học hành. Vua sống rất bình dân và có thói quen tiết kiệm của cải “rất cao”. Nghe nói có một vị pháp sư ở vùng tuyết phủ Tây phương có phép thuật tài tình làm cho dân được ấm no, nước được phú cường một cách nhanh chóng, vua liền cùng tứ trụ triều đình và hoàng hậu lên đường đi cầu học pháp thuật để mong đem về giúp cho dân được ăn no, mặc ấm và xóa đói giảm nghèo cho đất nước.
 
Vua và đoàn tùy tùng quả nhiên đã đến vùng Tây phương trắng xóa tuyết lạnh và đã được vị pháp sư cao tay ấn dạy cho các pháp thuật cần thiết để biến hóa mà giúp dân. Sau một thời gian học và tập, thấy đã tiếp thu đầy đủ lý thuyết, thực hành nhuần nhuyễn, Vua và tùy tùng xin về nước. Pháp sư và quốc vương xứ tuyết trắng cấp cho một số lương thực đi đường khá hậu hĩnh đầy đủ món ngon vật lạ.
 
Vừa ra khỏi biên giới nhà Vua đề nghị với tứ trụ triều đình và hoàng hậu rằng: “Ta nên tiết kiệm, đừng dùng đến số lương thực này, trên đường về tôi đã nghĩ ra kế hoạch tự lực cánh sinh. Triều thần “nhất trí” nhưng hỏi vua phải làm như thế nào để tự túc. Vua phán “Ta sẽ dùng phép hòa thành một con Hổ, Vua làm cái đầu, hoàng hậu làm cái đuôi, tứ trụ làm bốn chân. Thế là thời gian đi qua các rừng núi ta tha hồ mà ăn thịt các thú vật để khỏi đụng đến lương thực dự trữ.
 
Cuộc hành trình kéo dài nhiều tháng trong rừng núi, Vua hóa hổ ăn thịt sống quá nhiều đến nỗi một số phép biến hóa bị suy giảm do ảnh hưởng của chất máu sinh vật. Khi về đến ranh giới đất nước, vua mừng lắm, nhưng lại thấy nhân dân không hồ hởi, phấn khởi nghênh đón mình thì đâm ra tức giận lũ vô ơn, vô tình. Vua quên mất là phái đoàn mình đã biến thành cọp, miệng còn vấy máu, khiến nhân dân sợ hãi, người thì bỏ chạy, kẻ thì chống lại. Trước tình hình khó hiểu đó, vua đành vào tạm trú trong một cái hang ở vùng Tây Bắc. Trong cơn mộng, Vua nhận ra là mình đang mang lốt cọp dữ dằn. Thức dậy, vua vận dụng phép thuật để biến lại thành người, nhưng vì sát sanh quá mạng trên đường đi, phép hiện nguyên hình không còn linh ứng nữa.
 
Từ đó, vua càng hung bạo tha hồ tàn sát, gầm rú hăm dọa và ăn luôn thịt của nhân dân mình. Cả thế giới hoảng sợ. Cuối cùng Vua ấy bị một số lực sĩ có tài “đả hổ” vây lưới giam lỏng, sau một thời gian thì ngã bệnh chết. Xác không được chôn, người ta đem ướp để triển lãm”.
 
Theo dư luận thì câu chuyện này ra đời sau 30-4-1975, tác giả của nó bị bắt bỏ tù, bởi vì thấy độc giả không hiểu thấu thâm ý của mình viết về cái gì, về kẻ nào, bèn tiết lộ cho một vài người biết ông vua đó là ai.
(Quý độc giả thử đoán xem “Ông Vua hóa hổ” đó là ai?)
 
Thơ tiền chiến, có bài “Nhớ Rừng” của Thế Lữ khá hay và rất nổi tiếng. Bài thơ được gửi gấm tâm sự của một người vong quốc, bị giam cầm, nhớ về thời vàng son của đất nước mà căm hờn giặc xâm lăng qua lời con Hổ trong vườn Bách Thú.
 
Gặm một khối căm hờn trong cũi sắt,
Ta nằm dài, trông ngày tháng dần qua.
Khinh lũ người kia ngạo mạn, ngẩn ngơ,
Giương mắt bé riễu oai linh rừng thẳm                                                          
Nay sa cơ, bị nhục nhằn tù hãm
Ðể làm trò lạ mắt, thứ đồ chơi.
Chịu ngang bầy cùng bọn gấu dở hơi,
Với cặp báo chuồng bên vô tư lự.
 
Ta sống mãi trong tình thương nổi nhớ,
Thủa tung hoành, hống hách những ngày xưa.
Nhớ cảnh sơn lâm, bóng cả, cây già,
Với tiếng gió gào ngàn, với giọng nguồn thét núi,
Với khi hát khúc trường ca dữ dội
Ta bước chân lên, dõng dạc, đường hoàng,
Lượn tấm thân như sóng cuộn nhịp nhàng,
Vờn bóng âm-thầm, lá gai, cỏ sắc.
Trong hang tối, mắt thần khi đã quắc
Là khiến cho mọi vật đều im hơi.
Ta biết ta chúa tể muôn của loài
Giữa chốn cỏ hoa, không tên không tuổi.
 
Nào đâu những đêm vàng bên bờ suối,
Ta say mồi đứng uống ánh trăng tan?
Ðâu những ngày mưa chuyển bốn phương ngàn
Ta lặng ngắm giang san ta đổi mới?
Ðâu những bình minh cây xanh nắng gội
Tiếng chim ca giấc ngủ ta tưng bừng?
Ðâu những chiều lênh láng máu sau rừng
Ta đợi chết mảnh mặt trời gay gắt
Ðể ta chiếm lấy phần bí mật?
Than ôi! thời oanh liệt nay còn đâu?
Nay ta ôm mối uất hận ngàn thâu
Ghét những cảnh không đời nào thay đổi,
Những cảnh sửa sang, tầm thường, giả dối:
Hoa chăm, cỏ xén, lối phẳng, cây trồng;
Giải nước đen giả suối, chẳng thông dòng
Len dưới nách những mô gò thấp kém;
Dăm vừng lá hiền lành không bí hiểm
Cũng học đòi bắt chước vẻ hoang vu
Của chốn ngàn năm cao cả, thâm u.
 
Hỡi oai linh, cảnh nước non hùng vĩ!
Là nơi giống hùm thiêng ta ngự trị,
Nơi thênh thang ta vùng vẫy ngày xưa
Nơi ta không còn được thấy bao giờ!
Có biết chăng trong những ngày ngao ngán
Ta đang theo giấc mộng ngàn to lớn
Ðể hồn ta phảng phất được gần ngươi
Hỡi cảnh rừng ghê gớm của ta ơi!
 
Thế Lữ (1936) đề tặng Nguyễn Tường Tam (Nhất Linh)
 
Cuộc xướng họa giữa Hồ Xuân hương và Chiêu Hổ
 
Chiêu Hổ tên thật là Phạm Ðình Hổ (1768-1839), một danh sĩ thời Lê Cảnh Hưng. Ông là bạn văn thơ với Hồ Xuân Hương chủ nhân của Cổ Nguyệt đình (trong Hán tự chữ “cổ” ghép với chữ “nguyệt” là chữ “Hồ). Do đó, khi Chiêu Hổ nói “ghẹo nguyệt” là ám chỉ Hồ Xuân Hương. Cuộc xướng họa trêu ghẹo nhau gồm nhiều bài, ở đây chỉ xin dẫn ra hai bài có liên quan đến chữ Hổ, Hùm tức là cọp.
 
Trách Chiêu Hổ
 
Anh đồ tỉnh, anh đồ say,
Sao anh ghẹo nguyệt giữa ban ngày ?
Này này chị bảo cho mà biết.
Chốn ấy hang hùm chớ mó tay.
                     Hồ Xuân Hương
 
Chiêu Hổ họa lại:
 
Này ông tỉnh! Này ông say!
Này ông ghẹo nguyệt giữa ban ngày!
Hang hùm ví bẵng không ai mó,
Sao có hùm con bỗng chốc tay ?
 
Trong truyện Lục Vân Tiên:
 
“E khi họa hổ bất thành
Khi không mình lại xô mình xuống hang”
(câu 123-124)
“Trước cho hùm cọp ăn mầy
Hại Tiên sau dựng mưu này mới xong”
(câu 885-886)
(Trịnh Hâm lập mưu hại Vân Tiên)

Trong Chinh Phụ ngâm:
 
“Ðã trắc trở đòi ngàn xà hổ
Lại lạnh lùng những chỗ phong sương”
(câu 85-86)
 
Tôn Thọ Trường trả lời Phan Văn Trị:
 
“Miệng cọp hàm rồng chưa dễ chọc
Khuyên đàn con trẻ chớ thày lay...”
 
Trong truyện Trinh Thử:
 
“Trong nhà hắc hổ trấn bùa
Sinh con, sinh cái nuôi cho dễ dàng”
 
Trong “Việt Nam Ngọc Âm Giải Nghĩa”:
 
“Hùm kia vốn hiệu Sơn Quân
Lại có nhân hổ khả gần khả quen”
(Thiên “Mao Trùng Ðệ Tam Thập Nhị)
 
 “Khó khăn ở chợ leo teo
Bà, cô, ông, cậu chẳng điều hỏi sao
Hùm tha rắn cắn tìm vào cho mau
Giàu sang ở tận nước Lào”
 
Trong Hò Mái Nhì - Huế:
 
“Cầu Trường Tiền sáu nhịp bắc qua
Tả Thanh Long, hữu Bạch Hổ đợi khách âu ca thái bình...”
 
“Thanh Long - Bạch Hổ” là tên một “thế đất” trong khoa Ðịa lý Phong thủy.
 
Theo sách Tả Ao, thì mỗi thế đất có một kiểu riêng, tùy theo địa thế mà mắt nhìn thấy giống hình gì thì lấy hình dạng đó mà gọi kiểu đất. Chẳng hạn có kiểu gọi là “lục long tranh châu” sáu con rồng giành hạt ngọc; kiểu “phượng hoàng ẩm thủy” chim phượng hoàng uống nước; kiểu “tê ngưu vọng nguyệt” Tê giác nhìn trăng; kiểu “quần tiên hội ẩm” Các vị tiên cùng uống rượu; kiểu “nhất hổ trục quần dương” một cọp đuổi bay dê; kiểu kim quy, cá chép, voi ngựa, kiếm, cờ vân vân.
 
Thế đất gọi là Ðại địa phải hội đủ các hình thế “khởi, phục, nghênh, tống”... như thế nào. Thông thường khi thế đất ở chỗ có hai giòng nước giao nhau thì mới là huyệt trường. Huyệt trường cần phải có “tiền án, hậu trẫm, tả long, hữu hổ” Nơi “sơn cùng thủy tận” gọi là tuyệt địa; chỗ “huyền võ tàng đầu” (rùa giấu đầu) là hung địa vân vân.
                             (Việt Nam Phong Tục - Phan Kế Bính, tr.221-222)
 
* Tả Ao là một thầy địa lý danh tiếng của Việt Nam, tên Nguyễn Ðức Huyên, người làng Tả Ao, huyện Nghi Xuân, tỉnh Nghệ An, sinh vào đời nhà Lê, được qua Tàu học phép phong thủy rồi trở về nước làm nghề coi đất.
 
Trong Lịch Sử Việt Nam:
 
Có hai nhân vật tên Hổ. Ðó là:
 
1.- Lê Như Hổ, sinh năm Nhâm Ngọ (1522) là một quan Văn thời nhà Mạc, người làng Tiên Châu, huyện Tiên Lữ, tỉnh Hưng Yên.
 
Không rõ tên thật là gì. Ông họ Lê này chẳng những có văn tài mà còn có sức mạnh hơn người. Ông ăn khỏe nhất nước, nên người đương thời gọi là Như Hổ (do câu “Nam thực như hổ”: người nam ăn mạnh như cọp). Ông đỗ Tiến sĩ đời Mạc Phúc Hải (1541) lúc 39 tuổi, được phong chức Tả Thị Lang, và cử đi sứ nhà Minh để triều cống. Ði sứ về được thăng Thượng thư, tước Xuân Giang Hầu.
 
Tương tuyền lúc đi sứ sang Tàu, ông học được nghề làm dù và về dạy lại cho người trong nước, nên người Việt coi ông là Tổ sư nghề làm dù tai Việt Nam.
 
2.- Tăng Bạt Hổ, sinh năm Mậu Ngọ (1858, mất năm Bính Ngọ (1906).
 
Tên thật là Lê Thiệu Hổ, hiệu là Ðiền Bát Tử, tự là Sư Triệu, quê làng An Thường, xã An Thạnh, huyện Hoài An, tỉnh Bình Ðịnh. Khoảng năm 1872, ông tham gia phong trào chống thực dân Pháp trong hàng ngũ tướng Lưu Vĩnh Phúc, nhóm Cờ Ðen. Khoảng năm 1885 Tăng Bạt Hổ tham gia phong trào Cần Vương tại Bình Ðịnh do Mai Xuân Thưởng lãnh đạo. Năm 1887, phong trào Cần Vương Bình Ðịnh bị tan rã, Tăng Bạt Hổ trốn qua Trung Hoa, Thái Lan... theo nghề hàng hải, làm thủy thủ cho tàu buôn đi qua nhiều nước. Năm 1903, ông trở về nước và một năm sau ông đưa đường cho Phan Bội Châu và Ðặng Tử Kính sang Nhật Bản thành lập Phong Trào Ðông Du. Năm 1905, Tăng Bạt Hổ đem bài Khuyên Thanh Niên Du Học của Phan Bội Châu về truyền bá trong nước. Ông đội lốt nhà sư làm thầy thuốc để đi khắp nơi mà vận động. Năm 1906, ông từ trong Nam ra Huế thì lâm bịnh nặng, được các đồng chí tận tình chăm sóc và che giấu. Nhưng không qua khỏi, ông từ trần trong một chiếc thuyền trên giòng Hương Giang, hưởng dương 49 tuổi. Hai đồng chí của ông Võ Bá Hạp và Dương Bá Trạc đã chôn cất tại một khu đất ở dốc Nam Giao, thành phố Huế, bia do Phan Bội Châu viết là “Lê Thiệu Dần chi mộ”. Theo Võ Như Nguyện (Hội Quảng Tri - Huế) cách đề bia mộ này là để qua mặt mật thám Pháp. Dần là năm Cọp ám chỉ chữ Hổ)
 
Và một nhân vật “đả hổ”, tay không đánh cọp, đó là ông Lê Văn Khôi.
 
Lê Văn Khôi tên đúng là Nguyễn Hữu Khôi, nguyên là một thổ hào ở Cao Bằng (Bắc Việt) trước là họ Bế sau đổi thành Nguyễn Hữu Khôi. Ông có sức mạnh phi thường và rất can đảm, được Tả Quân Lê Văn Duyệt (1763-1832) nhận làm con nuôi và cho lấy họ Lê. Khi Tả Quân Lê Văn Duyệt được Vua Gia Long giao chức Tổng Trấn thành Phiên An (Vùng Gia Định cũ, nay thuộc Sài Gòn), Lê văn Khôi được đi theo vào Nam với chức Phó Vệ Úy. Vào thời đó, ở thành Phiên An, Tả Quân có một chuồng nuôi cọp.
 
Nhân dịp có Sứ Thần Xiêm La (tức Thái Lan) qua thăm Việt Nam. Tả Quân Lê Văn Duyệt muốn khoe tài sức của Lê Văn Khôi nên bày ra trò chơi "ngưới đấu võ với cọp". Sân đấu đặt sát cạnh chuồng cọp. Võ sĩ là Lê Văn Khôi. Lệnh truyền thả ra một con cọp... Vừa ra khỏi chuồng, thấy người, cọp liền nhảy tới vồ vào Lê Văn Khôi. Võ sĩ Khôi trách được rồi thuận tay có gậy sắt, đánh lại một gậy, cọp chết ngay. Sứ Thần Xiêm La vừa lên tiếng hoan hô thì Tả Quân liền quát lên rằng “Mau bắt Khôi đém chém!” Sứ Thần lấy làm lạ đưa mắt hỏi. Tả Quân nói là võ sĩ phải bắt sống cọp, chứ không được đánh chết. Lê Văn Khôi quỳ lạy xin tha tội, Sứ Thần cũng nói giúp nên Tả Quân cho phép đấu lại.
 
Một con cọp khác được thả ra và cuộc đấu bắt đầu. Cọp nhảy tới vồ Lê Văn Khôi, vị võ sĩ nhanh nhẹn nhảy lùi tránh né... khiến cọp vồ hụt nhiều lần. Lừa thế... chờ cọp nhảy tới Lê Văn Khôi đá một cái cọp ngã lăn ra... Lê Văn Khôi nhảy lên lưng cọp, đè mạnh, rút dây đeo sẵn ở thắt lưng, trói cọp lại... vác lên nộp cho Tả Quân.
 
Sứ Thần Xiêm hết sức thán phục và khen ngợi, hỏi tên họ và chức tước của võ sĩ. Tả Quân cười, đáp rằng “Bọn tiểu tốt của tôi chưa có chức tước gì nhưng đều có sức vật cả cọp, có gì lạ đâu.”
(Theo Nguyễn Bảo Tụng).
 
“Võ Tòng Đả Hổ”
 
Chuyện Lê Văn Khôi tay không đấu với cọp gợi nhớ chuyện Tàu “Võ Tòng Đả Hổ”.
 
Võ Tòng là một nhân vật trong truyện Thủy Hử (tiểu thuyết võ hiệp viết về các anh hùng Lương Sơn Bạc). Theo cốt truyện, Võ Tòng xuất thân từ huyện Thanh Hà, phủ Đông Bình, tỉnh Sơn Đông. Cha mẹ mất sớm, Võ Tòng được anh ruột là Võ Đại Lang nuôi dạy. Lớn lên Võ Tòng là người tráng kiện, oai hùng, mắt sáng, lông mày rậm, ngực rộng, bắp thịt cuồn cuộn, cao 8 thước...Võ nghệ cao cường, thích uống rượu và hành hiệp cứu giúp người, nổi tiếng là người nghĩa khí.
 
Võ Tòng là anh em kết nghĩa với Tống Giang và Tống Thanh là hai anh hùng Lương Sơn Bạc.
 
Chuyện kể rằng: Trên đường về quê thăm anh ruột, khi đi ngang qua huyện Dương Cốc, Võ Tòng ghé vào một quán rượu. Ở cửa quán có ghi câu “Uống ba chén không nên qua đồi”. Võ Tòng là người thích uống rượu không hạn chế, thấy câu dòng chữ ấy rất khó chịu, liền hỏi nguyên do. Chủ quán nói trên đồi Cảnh Dương có con hổ thành tinh, hung dữ, chuyên ăn thịt người, vì vậy ai uống quá say không nên đi qua đồi ấy. Nghe vậy, Võ Tòng lấy làm tức giận. Ông uống một mạch hết rượu trong Tửu Quán.
 
Chiều hôm đó, đang trong cơn ngà say, Võ Tòng cầm gậy một mình lên đồi tìm hổ. Đến sáng mới gặp hổ, ông cầm gậy vờn với mãnh hổ đến chiều tối... bất phân thắng bại. Đến lúc trời chạng vạng, sau khi dùng đủ mưu kế mà không thành, Võ Tòng vứt gậy, một tay đè đầu hổ xuống đất, một tay đấm, con hổ bị vỡ đầu, chết. Nhờ việc này, Tri Phủ Hàng Châu đã phong cho Võ Tòng chức Đô Đầu (có nhiệm vụ xem xét các vụ án hình sự).
 
Một Số Từ Ngữ Có Chữ “Cọp” Hoặc Hổ
 
Hổ tướng: vị tướng tài giỏi và đầy uy dũng thời nhà Tùy và nhà Ðường bên Tàu (khoảng năm 791-862) nổi tiếng nhất là Dương Kiên và Lý Thế Dân.
Hổ trướng: nơi đóng bản doanh của tướng soái ở mặt trận.
Hổ quyền: một địa danh tại Cố Ðô Huế. Hổ quyền là sân đấu dành cho Hổ và Voi được xây dựng năm 1830 thời nhà Nguyễn, tọa lạc ở phía nam sông Hương, tại thôn Trường Ðá, Thủy Biều-Huế (hiện còn di tích xem hình).



Hổ quyền còn có nghĩa là các thế võ của Cọp.
Hổ phụ sinh hổ tử: ý nói cha oai hùng con cũng oai hùng - Cha nào con ấy -
Dưỡng hổ vi hoạn: nuôi cọp có ngày gặp việc chẳng lành.
Hổ cốt: xương cọp (thường dùng để nấu cao “hổ cốt” bổ gân xương, tăng lực)
Hổ cáp (scorpion) con bò cạp (trong tử vi Tây phương)
Hổ huyệt: hang cọp “Bất nhập hổ huyệt, an đắc hổ tử” (Ban Siêu-nhà Hán): Không vào hang cọp sao bắt được cọp con, ý nói phải vào nơi nguy hiểm mới làm nên việc lớn.
Hổ bảng: bảng ghi tên tân khoa Tiến sĩ võ (đời nhà Thanh)
Hổ bảng danh đề: Tên được ghi trên Bảng Hổ, tức là đã thi đỗ Tiến Sĩ về Võ nghệ.
Theo “Tầm Nguyên Từ Điển” (Etimology): xưa có ba loại Bảng để ghi tên thí sinh đỗ Tấn Sĩ, Cử Nhân và Tú Tài. Bảng Long (có hình Rồng/Long Bảng) dành cho bậc Tiến Sĩ, Hổ Bảng (có hình Cọp) dành cho người đỗ Cử Nhân và Mai Bảng (hình cây hoa mai) dành cho bậc Tú Tài. Ở Việt Nam thời xưa triều đình dùng Bảng Vàng để ghi tên những người thi đỗ không dùng Long, Hổ, Mai như Trung Hoa.
Hổ khẩu: miệng cọp
Hổ cứ: điểm chiến lược
Hổ phù: tấm quân hiệu đúc bằng đồng tượng trưng cho Quyền Điều Binh Khiển Tướng mà Vua trao cho các Tướng lãnh cao cấp. Quân hiệu có hình dáng một con hổ, mặt con hổ ngậm một hoặc hai thanh kiếm. Quân hiệu Hổ Phù được chia làm hai nửa (hai mãnh có thể ghép liền và ăn khớp với nhau) Mãnh phù bên Hữu do chính quyền Trung Ương Triều đình/Vua) giữ, mãnh bên Tả được giao cho vị tướng cầm quân. Khi Vua cần điều động quân đội, sẽ sai người đem mãnh phù Hữu đến với vị tướng, nếu hai mãnh ráp lại khít khao thì Tướng mới chấp hành lệnh điều quân. Hổ Phù được dùng phổ biến vào thời Chiến Quốc. Tướng bị mất Hổ Phù không thể điều quân. (Ngày nay một số nhà phong thủy đã dùng Hổ Phù để trấn yễm - tên dùng không đúng.
Hổ uy: oai cọp.
“Hồ giả hổ uy”: Chồn mượn oai cọp để hù các loài thú khác - Cáo mượn oai hùm)
Điển tích:
Vào thời Chiến Quốc, Sở Tuyên Vương lấy làm lạ, không hiểu tại sao người dân phương Bắc lại quá sợ viên tướng Chiêu Hề Tuất của vua. Vua bèn hỏi các quan trong triều xem có ai biết lý do, tại sao? Đại thần Giang Ất đã dùng một ngụ ngôn để tâu trình lên vua Sở, rằng: Có một con hổ bắt được một con hồ ly (loại chồn đen, đuôi dài, chân ngắn). Hồ ly rất giảo hoạt, xảo quyệt, nói với hổ "ta được trời sai xuống quản lý các dã thú. Nếu bây giờ ngươi ăn thịt ta, ngươi sẽ làm Thượng đế nổi giận. Nếu không tin thì đi theo đằng sau ta, ngươi sẽ thấy tất cả dã thú đối với ta sẽ uy phục như thế nào." Hổ đồng ý để xem sự việc diễn ra như thế nào. Quả nhiên, từ đàng xa... thấy hổ...các dã thú đã tìm cách chạy trốn thật nhanh. Nhưng hổ không biết là các dã thú tháo chạy là vì sợ mình chứ không phải sợ hồ ly. Hiện nay binh quyền của Đại vương do Chiêu Hề Tuất nắm giữ, nhân dân phương Bắc sợ, chẳng qua vì sợ binh quyền của Đại vương mà thôi."
Hổ lửa: tên một loại rắn hổ
Hổ mang: một loại rắn
Hổ lang: chỉ loài hung dữ, tính hung dữ (Lang: chó sói)
Hổ lốn: các thức ăn khác nhau bỏ chung làm một món - không thuần nhất, pha trộn nhiều thứ với nhau.
Hổ phách: nhựa của một loại cây lá hóa thạch (tên khoa học Succium)- Màu hổ phách: màu vàng ánh da cam
Hổ danh: làm mất giá trị tên tuổi, mât danh dự.
Hổ ngươi: cảm thấy xấu và ngượng vì việc làm không thích đáng của bản thân mình (Xấu hổ)
Hổ thẹn: cảm thấy bị tồn thương khi ý thức việc làm sai trái, tội lỗi của mình, hoặc khi bị người ngoài phát giác ra.
“Họa hổ họa bì, nan họa cốt; tri nhân tri diện bất tri tâm”: ý nói biết người chỉ biết bề ngoài chứ không thể biết được trong lòng cũng như vẽ hình cọp chỉ vẽ lông da mà thôi khó mà vẽ được bộ xương.
Họa hổ bất thành: ý nói làm việc lớn mà không xong.
Cọp Mà Không Phải Cọp
Cọp cái: chỉ người đàn bà hung dữ
Cọp-pi: chép lại bài của người khác (do chữ Pháp “copier” bị Việt hóa)
Ði cọp: đi xe hoặc tàu mà trốn mua vé
Ðọc cọp, xem cọp: đọc hoặc xem (sách, báo) mà không chịu mua.
Cọp má: chỉ khuôn mặt bị teo, lõm vì tuổi già.
Hùm
“Râu hùm hàm ém mày ngài”: tả tướng mặt Từ Hải
“Miệng hùm nọc rắn ở đâu chốn này”: tả nỗi lo sợ của Thúy Kiều tại Quan Âm Các (câu 2016)
“Hùm thiêng khi đã sa cơ cũng hèn” (2516)
“Mèo tha miếng thịt xôn xao
Hùm tha con lợn thì nào thấy chi”
 
Thành ngữ
 
“Một rừng không thể có hai cọp” (Nhất sơn bất tàng nhị hổ): chỉ sự kỵ nhau giữa hai người tài giỏi, hai vị tướng, hai lãnh tụ.
“Thả cọp về rừng” (Tung hổ quy sơn): tạo điều kiện và môi trường thuận lợi cho kẻ ác tiếp tục hoạt động.
“Vuốt râu hùm”- “Xỉa răng cọp:”: làm chuyện nguy hiểm, hành động táo bạo một cách dại dột.
“Cọp dữ không ăn thịt con”: ý nói tình ruột thịt cha mẹ con cái rất thiêng liêng, ngay cả cọp dữ cũng không ăn thịt cọp con. [Thế nhưng trong lịch sử loài người đã có nhiều trường hợp sống với nhau tàn ác hơn dã thú! Cha con, vua tôi, anh em ruột... vì quyền lợi riêng, danh vọng hão... đã tàn sát lẫn nhau không nương tay!]
“Mãnh hổ nan địch quần hồ”: Cọp mạnh khó thể chống với bầy sói - Ý nói sức mạnh của một người không thể đối lại với sự đoàn kết của nhiều người.
“Điệu hổ ly sơn”: Dụ cọp ra khỏi núi - một kế trong binh pháp Tôn Tử.
“Dưỡng hổ di họa”: Nuôi cọp là nuôi mầm rủi ro, tai họa.
“Cọp Khánh Hòa, Ma Bình Thuận” ý nói vùng đất hoang vu, nhiều nguy hiểm.
Theo sử sách thì vào giai đoạn tiền bán thế kỷ thứ 19, vùng đất Khánh Hòa rừng núi hoang vu, có nhiều dã thú, nhiều nhất là cọp. Các quan chức người Pháp đã ghi nhận rừng Khánh Hòa nhiều cọp dữ. Họ từng tổ chức đi săn và đã ghi nhật ký về sự kiện này. Qua nhật ký của Toàn Quyền Pháp Paul Doumer thì quân lính gọi Khánh Hòa-Nha Trang là ‘Vùng Hổ”. Sách “Đại Nam Nhất Thống Chí” cũng nói vùng đất Khánh Hòa (cực Nam Trung Bộ) là nơi rừng núi rậm rạp có nhiều cọp dữ.
 
Còn “Ma Bình Thuận” có lẽ ám chỉ vùng đất Phan Thiết là nơi có những hồn oan của người Chiêm quốc đã bị quân Đại Việt tàn sát, diệt chủng. Trong bài thơ “Trên Đường Về”, thi sĩ Chế Lan Viên đã mô tả một cảnh ma khá thê lương:
 
Đây, những cảnh ngàn sâu cây lả ngọn,
Muôn Ma Hời sờ soạng dắt nhau đi
Những rừng thẳm bóng chiều lan hỗn độn
Lừng hương đưa, rộn rã tiếng từ qui !
 
Đây, chiến địa nơi đôi bên giao trận
Muôn cô hồn tử sĩ hét gầm vang
Máu Chàm cuộn tháng ngày niềm oán hận,
Xương Chàm luôn rào rạt nỗi căm hờn.
(Trên Đường Về - Chế Lan Viên -1937)
 
Thần Thoại “Long Hổ Tranh Hùng”
 
Vào thời mới tạo thiên lập địa, Rồng thấy mình uy dũng và nhiều tài năng hơn Cọp nên có tham vọng làm Chúa tể muôn loài. Vì vậy mà xảy ra cuộc Tranh Hùng Long Hổ.
Cuộc giao đấu kinh thiên động địa nhưng kết quả bất phân thắng bại, nên Ngọc Hoàng Thượng Ðế mới quyết định đứng ra phân xử cho hai bên.
Khi nghe được tin này, Rồng trở nên lo lắng. Lo là vì ngoại hình của Rồng lúc đó trông không được hùng vĩ lắm, vì chưa có hai cái gạc (sừng). Chỉ có con gà trống mới có sừng nên trông rất dũng mãnh. Con rết đã gợi ý Rồng mượn tạm sừng của gà trống để đi trình diện Ngọc Hoàng. Lúc đầu gà trống từ chối, nhưng vì Rết đưa ra lời cam kết bảo đảm sự chân thật của Rồng và các bạn của rết cũng cam kết, nên gà bằng lòng cho mượn.
 
Khi Rồng và Cọp đến trước Ngọc Hoàng để chờ phán quyết, cả hai đều trông rất kinh khiếp và hung tợn. Ngọc Hoàng liền cử Rồng làm vua của Thủy Giới và Cọp làm vua Ðịa Giới.
Hổ đã có sẵn biểu hiệu của sinh vật rồi, nên Ngọc Hoàng cũng ban cho Rồng một dấu hiệu tương đương với Cọp. Vì đã lỡ mang sừng khi nhận biểu hiệu chức vụ, nên bất đắc dĩ, Rồng không trả lại sừng cho gà trống.
Tức giận, gà trống đuổi theo rết. Rết chui vào lòng đất. Do đó, cho đến ngày nay, gà trống vẫn hận thù rết. Tiếng gà gáy mỗi buổi sáng... nghe vang vọng đó là sự tố cáo Rồng cướp sừng từ hàng ngàn năm trước. Ngày nay, những người chẳng may bị rết cắn, bị nhức đau không có thuốc trị, nhưng chờ đến khi gà gáy sáng... thì cơn đau nhức do rết cắn biến mất.
 
Chuyện Cọp còn nhiều, nhưng xin dừng lại ở đây.
Kính chúc một năm Nhâm Dần An Lành, Thịnh Ðạt.
       
                                                                          NGUYỄN CHÂU
                                                                        (San Jose, CA / 2022)

2 nhận xét:

  1. "Ong ba mươi" chỉ xuất hiwwnj vao thời Gia Long

    Trả lờiXóa
  2. Rất vui khi hảo hánG Kha Tiệm ly ghé thăm và ghi cảm nhận. Theo tự điển bách khoa Wikipedia thì:

    "Ông Ba mươi: chỉ thọ 30 tuổi và hay rình dò kiếm ăn vào đêm 30 Tết và kêu lên với sự tôn trọng, hay Cọp đi ba mươi bước là quên hết mọi thù oán hoặc Đêm ba mươicuối tháng âm lịch, trời tối đen như mực, là thời gian thích hợp cho cọp dễ lộng hành, tìm mồi. Truyền thuyết kể rằng, vua Gia Long trong những ngày sống trong rừng, hết cả lương thực may mắn có thịt thú rừng do hổ tiếp tế. Biết ơn hổ, vua cho lập miếu thờ và ra lệnh ai lỡ tay giết hổ bị phạt 30 trượng hoặc bắt sống thì thưởng 30 quan tiền. Vì vậy mà con hổ còn được gọi là ông ba mươi".

    https://vi.wikipedia.org/wiki/H%C3%ACnh_t%C6%B0%E1%BB%A3ng_con_h%E1%BB%95_trong_v%C4%83n_h%C3%B3a

    Trả lờiXóa

POST HÌNH HOẶC VIDEO CLIP VÀO Ô COMMENT :

Các bạn chỉ việc copy link hình hoặc link video clip dán trực tiếp vào ô comment mà không cần dùng thẻ