Trang

Thứ Năm, 9 tháng 9, 2021

NHẤT TỰ VI SƯ - Hồi ký của Hoàng Hóa


Tác giả bài viết Hoàng Hóa


 Khoảng đầu tháng 8/1973, những chuyến xe khách khoảng 45 chỗ của các hãng xe  chuyên chạy đường dài Sài gòn - Đà nẵng Phi Long, Tiến Lực, Thuận Thành, Miền Trung... đón nhiều gia đình ở trong trại tạm cư Hòa Khánh ĐN đã chấp nhận rời bỏ nơi chôn rau (nhau) cắt rún của mình đang  ở bên kia dòng sông Thạch Hãn - là Khu Phi Quân sự theo Hiệp định đình chiến Paris - đi vào phương Nam theo chương trình "khai hoang lập ấp" do Quốc Vụ Khanh Phan Quang Đán của chính phủ VNCH đặc trách, dưới sự dẫn dắt của  các vị lãnh đạo tinh thần, tôn giáo, đặc biệt là các vị Linh mục Công giáo, đến khu nhà lá dựng tạm tại ấp Động Đền xã Phước Thuận, huyện Hàm Tân, Bình Tuy sau hành trình khá dài - hơn 24 tiếng đồng hồ. Xe xuất phát tại Hòa Khánh vào khoảng 10 giờ sáng, nghỉ qua đêm tại Sông Cầu - Phú Yên và đến Động Đền vào khoảng 4 giờ chiều ngày hôm sau.
 
Đoàn "cô nhi" * chúng tôi gồm khoảng 20 cái đầu xanh đi trên chuyến xe của hãng Thuận Thành dưới sự đùm bọc của Linh mục Nguyễn văn Nam (Cha đã về bên nước Chúa).

Khu nhà ở dành cho lũ chúng tôi là một khu nhà lá đơn sơ, nhà dành cho Cha cũng đơn sơ không kém, nằm sau ngôi trường lợp tôn ở giữa một khu rừng chủ yếu là cây dầu rái thân thẳng, to cao và lác đác có vài cây hoa mai rừng vào mùa xuân nở hoa xanh biếc rất đẹp mà vị Mục tử - Linh mục Nguyễn văn Nam (chắc phải có sự tài trợ của  Đức Cha Etcharen người Ý) đã  được xây dựng trước đó để sẵn sàng đón chúng tôi và các bạn cùng trang lứa ở xung quanh trường bước vào năm học mới 1973-1974 ở nơi quê mới. Chúng tôi được sơ Xuân giàu lòng từ thiện chăm sóc về mặt vật chất. Ngôi trường mang tên Trung học Tư thục Thánh Linh - Động Đền.
 

Trường trung học tư thục Thánh Linh, Động Đền, Hàm Tân 
(Các niên khóa 1973-1974, 1974-1975)
 
Trường có cả hai cấp học : Trung học đệ nhất cấp và đệ nhị cấp, có nghĩa là trường đón nhận học sinh  từ lớp đệ Thất đến lớp đệ Nhất (từ lớp 6 đến lớp 12). Bước vào niên khóa này, tôi học lớp đệ Tam (lớp 10), thầy cô dạy chúng tôi một vài thầy là người địa phương ở Hàm Tân,  còn lại là các thầy cũng thuộc trong số dân tị nạn Quảng Trị đi  khai khẩn đất hoang và lập quê hương mới ở Bình Tuy.

Các Thầy quê Quảng Trị di dân có thầy Lê Mậu Duy - dạy Toán, thầy Nguyễn Hiền dạy Hóa, thầy Đô dạy Văn. 

Môn Pháp văn là Sinh ngữ 2 do thầy Mạc Phi Đăng người Bắc - 54 ở Hàm Tân dạy. Thầy dạy  theo sách "Cours De langue et Civilizacion Francaise" (Ngôn ngữ và Văn minh Pháp) của tác giả Mauger. Sách giáo khoa nầy có 4 tập. Chúng tôi học tập 1. 


      

Mặc dù mới được học tập 1 (Mauger -1), nhưng thầy Mạc Phi Đăng đã bắt đầu dẫn dắt chúng tôi đến với nền văn chương Pháp qua các tác phẩm như "Thằng Gù ở nhà thờ  Đức  Bà" (The Hunchman of Notre Dame) của Vitor Hugo, "Cuốn Nhât Ký của Bạn tôi" (Le Livre de mon Ami) của Anatole France, đặc biệt là cuốn "Les Grands Coeurs" của triết gia người Ý là  Edmondo De Amicis, cuốn nầy đã được thầy Hà Mai Anh chuyển ngữ  sang tiếng Việt từ bản tiếng Pháp của Piazzi với tựa đề là "Tâm hồn Cao Thượng". Đây là cuốn “Luân lý Giáo khoa Thư” được dùng trong nhà trường phổ thông của nền giáo dục "Nhân bản - Dân tộc và - Khai phóng" cho bao thế hệ học sinh trong nhiều thập niên ở Miền Nam.
 
Riêng bộ môn Anh văn là Sinh ngữ 1, chúng tôi được thầy Đoàn Đức giảng dạy ở lớp đệ Tam và lớp đệ Nhị (lớp 10 và 11 trong 2 niên khóa 1973-1974 và 1974-1975). Thầy dạy lớp chúng tôi dựa theo Cuốn 4 và Cuốn 5 của bộ sách giáo khoa ENGLISH FOR TODAY gồm 6 cuốn do Hội Đồng Quốc Gia  Giáo Sư Anh văn Hoa Kỳ biên soạn.

            
Thầy Đoàn Đức dạy sinh ngữ chính Anh văn




 Trong khi thầy Mạc Phi Đăng dạy Pháp văn dẫn dắt chúng tôi khám phá cái "ngôn ngữ lãng mạn" và cái nền "Văn minh" của nước Pháp bên Châu Âu thì Thầy Đoàn Đức, ngoài những bài ngữ pháp "sâu sắc như triết lý" đã giúp chúng tôi  hiểu và nắm vững nội dung của những bài khóa trong sách giáo khoa về những phát minh và những thành tựu về khoa học - kỹ thuật mà các nhà khoa học của nước Mỹ cũng như của một số nước khác đã đạt được  trong nhiều lĩnh vực đã được đưa vào sản xuất phục vụ cho đời sống của con người, thầy còn dành thời gian dẫn dắt chúng tôi đến với  những tác phẩm văn học nổi tiếng như "Túp lều của chú Tom" ( Uncle Tom's Cabin) của Harriet . B. Stowe, "Cuốn theo chiều gió" (Gone with the Wind) của Magaret Mitchell...
 
Không những uyên thâm về ngôn ngữ và văn chương của Anh - Mỹ, thầy còn uyên bác về các lãnh vực khác nữa như văn học cổ Việt nam, bói Kiều, Thiền, Tôn giáo...
 




 Rồi khi hoàn cảnh xã hội đổi thay, vật đổi sao dời, không còn được làm "giáo chức" nữa, với khí chất của một "Kẻ Sĩ", thầy đã: "Cầm chánh đạo để tịch tà cự bí... Quyết ra tay lèo lái với cuồng phong, ... Đem tất cả sở tồn làm sở dụng" và cuối cùng thầy ... đã “hoàn danh” ở môi trường mới. Thầy đã trở thành một Doanh nhân thành đạt.
Qua "điều tra lý lịch" sau nầy, tui được biết thầy là cựu học sinh trường Nguyễn Hoàng Quảng Trị từ 1960 đến 1967, đặc biệt  trong 3 năm học ở  bậc Trung học đệ Nhị cấp (đệ Tam, đệ Nhị và đệ Nhất) từ 1964 đến 1967,  thầy đã từng được "mệnh danh" là một trong "Tam Anh vườn Đào xứ Quảng" đó là "Đức -Thắng -Nghĩa" * của trường Nguyễn Hoàng... Rồi thầy đã Tốt nghiệp ĐHSP Huế khóa 1967-1971. Như vậy, thầy và các đồng môn của thầy như thầy Nguyễn văn Quang, thầy Nguyễn Đình Hạnh, thầy Hoàng Đằng... là "những sản phẩm hoàn hảo" của một nền giáo dục "Dân tộc - Nhân bản và Khai phóng" nay đã trở thành dĩ vãng... buồn thay!!!
 
                                     Thầy Hoàng  Đằng và thầy Nguyễn Văn Quang

Nhờ được thầy Quang trao cho "chiếc chìa khóa vàng" hồi lớp đệ Tứ và được Thầy Đoàn Đức "trang bị" cho những bài "ngữ pháp như triết lý" rất đắt giá, với "sự giúp đỡ  và kèm cặp" của 2 thầy Nguyễn văn Khôn - tác giả cuốn từ điển ANH -VIỆT, VIỆT -ANH  và thầy  Nguyễn văn Ngãi - tác giả cuốn VĂN PHẠM ANH VĂN, song song với việc học trên lớp, tui có thể bắt đầu tự mình "cày vỡ hoang" trước cuốn 6 - về "Văn chương  Anh Ngữ" là cuốn cuối cùng của bộ EFT để chuẩn bị cho kỳ thi "Tú Tài Đôi" vào cuối niên khóa 1975-1976.
 
Nhờ "cày vỡ  hoang trước" như vậy, mà tôi đã tiếp cận với nền thi ca của những nhà thơ, nhà văn nổi tiếng Anh, Mỹ... như William Shakespeare, Ernest Hemingway, John Steinbeck, Santha Rama Rau, Emily Dickenson, William Butler Yeats, Walt Whitman, nhưng đối với tôi, tôi thích Robert Frost với bài "Ngừng bên đường một chiều Đông lạnh" (Stopping by Woods on a Snowy Evening) và Robert Burns vơi bài "Hồn tôi ở tận trên Cao nguyên" (My Heart's in the Highlands) vì những bài thơ nầy tôi có thể cảm thụ được. Đặc biệt tôi thích nhà văn Mỹ William Faulkner với "Bài diễn văn đọc nhân dịp nhân Giải Nobel về Văn chương" (The Speech on receiving the Nobel Prize in Literature)) tại Stockholm Thụy Điển vào năm 1950. Nó có thể được coi như một tuyệt tác về văn chương và là KIM CHỈ NAM ‘cho các bạn trẻ nam cũng như nữ viết văn ngày nay’, theo William Faulkner, ‘đã quên mất vấn đề tâm hồn của con người xung đột với chính nó’, “vì chỉ có tâm hồn con người xung đột với chính nó mới tạo ra tác phẩm hay, sự xung đột đó mới đáng viết ra, mới xứng với những lao khổ và nhọc nhằn của người cầm bút. Nếu không học lại điều này thì người cầm bút sẻ phải chiu sự nguyền rủa của cuộc đời... người ấy không viết về tình yêu mà viết về dục vọng, về những thất bại mà trong đó không ai mất một vật gì đáng giá, về những chiến thắng vô vọng, và tệ hơn cả là không có chút tình thương hoặc lòng trắc ẩn nào... Thiên chức của thi sĩ, văn sĩ là viết về những điều đó. Người cầm bút có đặc quyền là giúp cho con người chịu đựng bằng cách nâng cao tâm hồn họ, bằng cách nhắc nhở họ nhớ đến lòng can đảm, danh dự, hảnh diện, lòng trắc ẩn và sự hy sinh là những gì đã đem lại vinh quang cho quá khứ của con người. Tiếng nói của nhà văn, nhà thơ không phải chỉ để ghi lại đời sống của con người mà nó còn có thể là những trụ cột chống đỡ giúp con người chịu đựng và chiến thắng”. Tui thấy nó quá hay đến nỗi tui đã không thể không học thuộc lòng được và vẫn còn nhớ cho đến bây giờ.
 
Học kỳ một của lớp đệ Nhị kết thúc và bất ngờ tui bị bệnh, không thể tiép tục học được, buộc lòng tôi phải xin Cha về lại gia đình ở ngoài Quảng Trị để có điều kiện chữa trị thuốc men, đành dở dang việc học hành tại trường Thánh Linh. Thật đáng tiếc!
 
Khoảng cuối tháng 1 năm 1975, tôi đã rời Cô Nhi Viện ấm cúng của Cha Nam giàu lòng từ thiện, sơ Xuân ân cần chu đáo, rời những người thầy khả kính và tận tụy và bạn bè thân quen... về với gia đình đã "hồi hương" theo chương trình "Về làng Cũ" do Quốc vụ Khanh Phan Quang Đán đặc trách. Ngôi "làng cũ" nầy thuộc xã mới Đông Xuân nằm trên khu cát trắng quanh Ga Diên Sanh bây giờ, khoảng giữa đoạn đường Quốc Lộ 1 mà hồi “Mùa hè Đỏ lửa – 1972  gần 3 năm trước. Ông Turley Đại tá Cố vấn Mỹ cuối cùng tại Quảng trị đã đặt tên là "ĐẠI LỘ KINH HOÀNG" . Cái "làng cũ" trên bãi cát trắng nầy và cái làng cũ -nơi chôn rau cắt rún đã được hình thành từ xa xửa xa xưa cách nhau chỉ:
 
 “... một giòng sông (mà) không dám gọi,
  Chỉ cất nón, đứng nhìn nhau mãi
  Để giòng nước mắt chảy trong tim,
  Sông có biết lệ cũng thành lửa cháy?”
 
 
  (còn tiếp)
 
Hoàng Hóa
 
*

* Thầy Đoàn Đức dạy Anh văn, hiện ở Sài gòn.

* “Tam Anh vườn Đào xứ Quảng” là thầy Đoàn Đức, b/Ss Nguyễn Thắng B/V Trung ương Huế và Dịch giả Đỗ Tư Nghĩa (Thám tử Sherlock Holmes, Tự truyện  OSHO...)

*Và thầy... Nguyễn văn Ngãi.

* Cô nhi là diện không còn cha-mẹ, hoặc mất cha hoặc mất mẹ. Tôi thuộc diện mất mẹ.
 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

POST HÌNH HOẶC VIDEO CLIP VÀO Ô COMMENT :

Các bạn chỉ việc copy link hình hoặc link video clip dán trực tiếp vào ô comment mà không cần dùng thẻ