Trang

Thứ Năm, 6 tháng 5, 2021

PHIẾM LUẬN VỀ CHỮ ĐỒ - Đồ Gàn



Trong tiếng Việt không có chữ nào có nhiều nghĩa và nhiều ứng dụng bằng chữ “Đồ”. Chữ này chiếm một địa bàn rộng lớn vì nó được dùng để chỉ tất cả những dụng cụ tiện nghi mà con người sáng tạo ra để đáp ứng đời sống vật chất cho chính mình. Ví dụ như: Cái bàn, cái tủ, cái giường, cái ghế là… đồ đạc trong nhà. Cái cày, cái cuốc, cái xẻng là… đồ làm vườn, làm ruộng. Cây súng, lưỡi gươm, cung nỏ là… đồ binh khí. Con búp bê, trái banh, cỗ bài là… đồ chơi.
 
Ngay đến những giai đoạn văn minh loài người cũng được mệnh danh qua chất liệu của đồ dùng chẳng hạn thời đại đồ đá, đồ đồng. Sở thích con người cũng đa dạng qua các món đồ: Đồ sứ, đồ vàng, đồ cổ… thậm chí sưu tầm cả đồ phế thải.
 
Chữ đồ trong phạm vi ẩm thực thì có đồ ăn, đồ uống. Qua đó sở thích của con người cũng khác nhau. Có người thích đồ Tàu, kẻ thích đồ Tây, nhiều người chỉ muốn thưởng thức cây nhà lá vườn từ đồ Ta của ta thôi, nhưng tựu trung thì ai ai cũng chỉ thích ăn đồ nóng, uống đồ lạnh. Gấp quá, lười, hay không có thời gian nấu thì tạm thời ăn đồ nguội. Muốn dự trữ phòng bão lụt, chiến tranh thì dùng đồ khô. Rồi trong món ăn kẻ thích đồ cay, người thích đồ mát. Không muốn nấu chín thì ăn đồ sống. Thích nhậu thì ngoài bia, rượu còn có đồ nhắm mà khoái khẩu nhất phải kể là nhắm với đồ biển (hải sản).
 
Chữ đồ còn được dùng trong lãnh vực y phục. Khi ra ngoài, không ai phô trương đồ lót hay đồ cộc, mà phải mặc đồ tề chỉnh còn gọi là đóng đồ vía, có kẻ muốn lập dị còn chơi kiểu đồ quái dị nữa. Ngoài ra, đồ trang sức cũng không kém phần quan trọng, cần có để tăng thêm vẻ đẹp bên ngoài. Khi chưng diện tiệc tùng xong, về nhà, bao đồ dơ đem bỏ máy giặt.
 
Ý nghĩa chữ đồ, không giới hạn ở thiết bị, ẩm thực hay nói chung vật dụng vô tri mà còn tiến lên bình diện con người. Người mổ heo thì gọi đồ tể, kẻ dạy học thì gọi thầy đồ, ông đồ hay cụ đồ. Tuy nhiên khi dùng chữ đồ nói về con người, thường hàm ý xấu. Không ai nói đồ tử tế, đồ thánh hiền, đồ đạo đức, đồ quân tử, đồ tốt bụng, đồ hiền lương hay đồ thủy chung mà chỉ nghe khi chửi nhau, thiên hạ ong óng lên, mày là đồ ba que, đồ xỏ lá, đồ sở khanh, đồ quạ mổ, đồ mất dạy, đồ khốn nạn, đồ lưu manh, đồ tiểu nhân, đồ chó đẻ, đồ dị hợm, đồ đểu cáng, đồ ba nhe, đồ mất nết, đồ mọi rợ, đồ phải gió, đồ nham nhở, đồ thối tha, đồ ăn cướp, đồ trộm cắp, đồ bê bối, đồ phản động, đồ phản quốc, đồ ác ôn, đồ nhỏ nhen, đồ bần tiện, đồ bủn xỉn, đồ bất nhân, đồ bất hiếu, đồ bất nghĩa, đồ hết thuốc chữa, đồ… đồ… đồ… Trời đất!  Sao trong văn học Việt Nam lắm câu chửi thế. Hèn gì, lời tốt lành dành cho nhau thì quá khan hiếm nên khiến đất nước ta chiến tranh, đau khổ triền miên. Lời thị phi nhân ngãi cũng phát sinh tràn lan đến nỗi nhà văn Võ Hồng đã thốt lên:
 
“Thiên hạ luôn bủn xỉn lời khen mà hào phóng lời chê bai, chỉ trích…” 

Một nghĩa tự đồ thường thấy nữa liên quan đến khái niệm giáo dục chỉ về học đường, người ta thường nghe nhóm chữ quen thuộc đồ đệ, tông đồ, môn đồ, cao đồ. Từ khi còn bé ai cũng được học vẽ bản đồ, địa đồ. Lớn hơn một chút, qua các môn khoa học lý thuyết hay thực hành thì học đồ thị, đồ biểu, thiên văn đồ, sơ đồ, giản đồ, lược đồ, họa đồ. Khi đã học hết mọi thứ, những học trò giỏi trưởng thành có ý chí vươn lên trong quá trình học tập thường vạch ra cho mình những đồ án để thực hiện làm nên cơ đồ vẻ vang. Nhưng để ám chỉ những học trò hư hỏng, luôn có những ý đồ, mưu đồ không tốt, đã không làm nên trò trống gì cả còn phản thầy thì người đời gọi là đồ nghịch tử hay loạn đồ.
 
Nói chung chữ đồ không chỉ rất nhiều nghĩa, nghĩa bóng, nghĩa đen như tôi vừa trình bày ở trên, mà nó còn góp phần đánh dấu từng giai đoạn lịch sử và văn hóa nước ta qua các bài thơ, phú, ca dao, hát nói.. v..v… Chẳng hạn qua bài:
 
THẦY ĐỒ
 
Thầy Đồ là người tài bộ.
Quẩy cầm thư sang giáo thọ phủ Vĩnh Tường.
Trước nha môn thiết lập học đường.
Trò dăm đứa “chi, hồ, dã, giả”…
Một hôm thầy Đồ nhàn hạ.
Đồ ra hồ xem ả hái hoa.
Ả hớ hênh ả để đồ ra.
Đồ thấy đồ ngâm nga tức khắc.
Xuân tiền lạn mạn hoa sinh sắc.
Thủy diện vi mang bạng thổ thần.
Đồ ngâm rồi, đồ đứng tần ngần.
Đồ nọ tưởng đồ kia thêm thắc mắc.
Đêm năm canh Đồ nằm khôn nhắp.
Những mơ màng Đồ nọ tưởng đồ kia.
Đồ ơi, gặp gỡ làm chi!
                                   (Khuyết danh)
 
Chúng ta hình dung được phần nào về chiếc váy rất thuận lợi với khí hậu nóng bức vùng nhiệt đới và sinh hoạt đồng áng, trồng lúa, tát nước nhưng vô cùng hấp dẫn khiêu gợi (nếu hớ hênh) cách trang phục của phụ nữ Việt Nam thời xưa đơn giản chỉ bằng mảnh vải quấn thân hoặc khâu kín thành ống mà trong dân gian đã ví von với niềm tự hào, hãnh diện về bản sắc văn hóa của dân tộc:
 
Cái ống mà thủng hai đầu.
Bên ta thì có bên Tàu thì không.
 
Rồi cũng từ tự đồ, chúng ta nhìn lại lịch sử của dân tộc, trải bao năm bị đô hộ: Hết Tàu, Tây chữ đồ đã được dùng trong một cuộc đối thoại để thấy tinh thần đấu tranh bất khuất của dân ta thể hiện dưới mọi hình thức, ở mọi từng lớp chống bọn ỷ thế phương Bắc, bọn cường quyền xâm lược một cách tài tình thâm thúy.
 
Một Đoàn Thị Điểm giả cô hàng nước đón tiếp sứ Tàu, đã dùng tài năng văn học đối đáp bén nhạy khi sứ Tàu đọc câu:
 
Nam bang nhất thốn thổ, bất tri kỷ nhân canh.
(An Nam một tấc đất không biết bao nhiêu người cày)
 
Có ý xấc xược, chòng ghẹo.
 
Bằng lời lẽ nghiêm trang, tác phong lịch sự, bà đáp ngay rằng:
 
Bắc quốc đại trượng phu, giai do thử đồ xuất.
(Đại trượng phu nước Tàu cũng từ chỗ đó mà ra)
 
Đã khiến bọn ỷ thế phương Bắc khâm phục nước ta về mọi phương diện.
 
Tuy nhiên trong cuộc sống, bên cạnh các anh tài hào kiệt, vẫn không thiếu những bọn hèn nhát dù là bậc khoa bảng, muối mặt làm tay sai cho kẻ thù của dân tộc để cụ Nguyễn Khuyến vào thời Pháp thuộc đã phải than lên trong bài:
 
ÔNG NGHÈ THÁNG TÁM
 
Cũng cờ cũng biển cũng cân đai.
Cũng gọi ông nghè chứ kém ai?
Mảnh giấy làm nên khoa giáp bảng.
Nét son điểm rõ mặt anh tài.
Tấm thân xiêm áo coi mà nhẹ.
Cái giá khoa danh ấy mới hời.
Ghế chéo, lọng xanh ngồi bảnh chọe
Tưởng rằng đồ thật hóa đồ chơi.
 
                                                                                              Đồ Gàn

1 nhận xét:

  1. Nghe “Giễu thầy đồ Cổ Nhuế” cũng vui!

    Đồ nọ thấy ngâm-nga tức khắc:
    “Xuân tiền lạn mạn hoa sinh sắc
    Thủy diện vi mang bạng thổ thần”

    Trước gió lăn tăn làm hoa thêm đẹp
    Trên mặt nước cái trai thè lưỡi ra.

    Có người dịch:

    “Trước gió phất phơ hoa nẩy sắc
    Một dòng thấp thoáng hến thè môi”.
    *
    Vì Thầy Đồ thoáng thấy “cái đồ” của ả hái hoa “hớ hênh để đồ ra” từ bộ đồ độc đáo của phụ nữ VN:

    “Cái ống mà thủng hai đầu
    Bên ta thì có bên Tàu thì không.”

    Trả lờiXóa

POST HÌNH HOẶC VIDEO CLIP VÀO Ô COMMENT :

Các bạn chỉ việc copy link hình hoặc link video clip dán trực tiếp vào ô comment mà không cần dùng thẻ