Trang

Thứ Sáu, 4 tháng 1, 2019

HAI LẦN GẶP NHÀ THƠ HỮU LOAN Ở BÀ RỊA - Lê Thiên Minh Khoa


       
                           Tác giả Màu tím hoa sim - 
                     Tranh dán giấy của Phạm Hoan


          HAI LẦN GẶP NHÀ THƠ  HỮU LOAN Ở BÀ RỊA
                                                                Lê Thiên Minh Khoa

   Tôi gặp nhà thơ Hữu Loan chỉ 2 lần, nhưng lần nào cũng dài ngày.
   Lần đầu, vào đầu năm 1988, vào dịp tết Nguyên đán, gia đình tôi được đón tiếp nhà thơ Hữu Loan ở Bà Rịa khi ông du hành phương Nam.
  Đây là cuộc hành phương Nam đầu tiên của ông sau ngày 30.4.1975. Sau nhiều năm bị quản thúc tại địa phương, đến năm 1986, ông mới được ra Hà Nội thăm bạn bè và cuối năm 1987, làm một chuyến du hành phương Nam. Trạm dừng chân đầu tiên là Huế, rồi Quảng Ngãi, Nha Trang và cuối cùng là Biên Hòa và Bà Rịa. Đến địa phương nào, ông cũng được giới văn nghệ sĩ đón tiếp nồng hậu. Riêng ở Bà Rịa, ông  trú lại suốt tết năm đó, đầu năm 1988, ăn ngủ với  chúng tôi, cùng đi chơi hội vui xuân, chụp hình, đàm đạo, dẫn các cháu bé đi dạo, dự các tiệc thơ với Hội thơ Lan Đình, giao lưu với văn nghệ sĩ, trí thức Bà Rịa yêu thơ ông, ngồi làm mẫu cho HS Phạm Hoan ký họa, nhậu “xoay tua” với bợm nhậu đất rượu Hòa Long… Ôi, biết bao là kỷ niệm  đẹp với ông, về ông!…

   Còn nhớ một buổi tối trong khu tập thể phòng giáo dục huyện Châu Thành, tại Thị trấn Bà Rịa, nơi vợ chồng tôi tạm trú, bên 2 dĩa mồi là cá trich (loại cá rẻ nhất lúc bấy giờ) kho giả cá hộp và ốc sên (bắt trong vườn nữ tu viện Saint Paul) xào lá lốt để đưa cay với "rượu Hoà Long ai đong nấy uống", ông tâm sự với chúng tôi về cuộc đời và nhiều tình cảnh, giại thoại sáng tác của ông, trong đó có hoàn cảnh sáng tác bài thơ “Màu tím hoa sim". Tiếp ông hôm đó có đông đủ VNS, trí thức Bà Rịa thời đó: Nhạc sĩ Trần Quang Lộc, Lão Nông thi sĩ Linh Đàn Nguyễn Hữu Kiểm, ông Ba Chiêu (người làm đàn và đánh đàn), vợ chồng nhà báo - nhà thơ Phong Hồ Lê Viết Dương _ nhà văn Huyền Anh, vợ chồng HS Phạm Hoan -  nhà văn Phạm Thị Nguyệt Cầm, các nhà giáo yêu thơ: Nguyễn Thái Hưng, Nguyễn Thành Nhơn, Trọng Thuỷ (nhạc công)... và vợ chồng tôi. Trong tiếng đàn phong cầm, acmonica và ghita thùng, ông đọc và chép tay cho chúng tôi những bài thơ ông đã viết và dịch, ấn tượng nhất là bản dịch của ông bài "Tương Tiến Tửu" của Lý Bạch. Sau đó, ông đọc bài thơ ông hoạ bài thơ  "Vịnh Lan Đình" của Hội thơ Lan Đình Bà Rịa mà ông họa hồi khuya rồi. Khi nhạc sĩ Trần Quang Lộc hát cho ông nghe 2 bản  nhạc phổ bài thơ "Màu tím hoa sim" của ông: bài “Áo em sứt chỉ đường tà” do  Phạm Duy phổ thơ và bài "Những đồi hoa sim" do  Dũng Chinh phỏng thơ, thì trái với tất cả chúng tôi, những người sống ở miền Nam và tương đối hiểu về âm nhạc, ông lại thích bản nhạc bình dân  phỏng thơ ông của Dũng Chinh hơn (trong văn nghệ, sở thích, thẩm mỹ khác nhau cũng là lẽ thường!)
   Lần thứ 2 là  hè năm 1988,  khi ông lại vào Nam  tìm thăm người con cả đang làm thợ mộc ở xã Hắc Dịch, một xã vùng sâu của  huyện Châu Thành (thị trấn Bà Rịa nơi tôi ở, bấy giờ là huyện lỵ của huyện Châu Thành),  tỉnh Đồng Nai (cũ) và trở thành khách mời không chính thức của trại sáng tác do Hội VHNT  Đồng Nai  tổ chức ở Long Hải, cách Bà Rịa 12km. Lúc nầy ông sống "ba cùng" với chúng tôi và ông được văn nghệ sĩ trong đoàn đón tiếp nồng hậu "trên mức tình cảm".
   Lại nói, khi ở Bà Rịa với anh em chúng tôi, nhà thơ Hữu Loan đêm nào ông cũng thức khuya để viết lách, vẽ vời và chép tay lại những bài thơ của ông,  để tặng chúng tôi, trong đó có những bài thơ Đường ông dịch và những bài thơ ông sáng tác chưa bao giờ công bố hoặc là chúng tôi mới đọc lần đầu như: Hoa Lúa, Những tháp chuông giáo đường…   Kỷ niệm đáng nhớ nhất về tính thi sĩ của ông là một đêm ông đang ngủ bỗng nhiên bật cười lớn, khoái trá và bật dậy, bật đèn, ghi ghi chép chép. Thì ra ông tìm được những “khoái tự” (hình như là cụm từ “chàng trơ ngọc”!) cho bài họa của bài xướng "Vịnh Lan Đình" của Hội thơ Lan Đình Bà Rịa mà hồi tối, trong tiệc  thơ tại sàn thơ của hội thơ Lan Đình ông đã nghe nhà văn Huyền Anh - vợ thủ đình Phong Hồ diễn ngâm và  suốt từ đó, ông  tìm ý tứ, câu chữ cả trong giấc ngủ:

HỌA VUI THƠ SÀN (*)

Lầu cao chưa chắc đã hơn sàn
Sách quý nào ai nỡ gói hàng
Có rượu có cua mà xách đến
Nào thi nào  phú hãy mang  sang
Văn chương ế ẩm chàng trơ ngọc
Tình tự triền miên thiếp mất vàng
Ý hợp tâm đầu bên Thủy Bạc
Thơ  thần sang sảng quát thì tan!

                          Hữu Loan  họa

     Hữu Loan học Tây học, nhưng rất giỏi chữ Hán rất thích dịch thơ Đường, mà chỉ dịch bài nào ông thích thôi. Về khoản chữ Hán và dịch thơ Đường thì ông và Lão Nông thi sĩ Linh  Đàn, lúc nầy ở Bà Rịa, rất tâm đắc với nhau. Trong những bản dịch Đường thi mà ông để lại, mấy anh chị em văn nghệ sĩ Bà Rịa ấn tượng nhất, thích nhất và thuộc luôn  là bài "MỜI RƯỢU" ông dịch bài thơ "TƯƠNG TIẾN TỬU" của Lý Bạch, dù trước đó đã đọc bản dịch bài thơ nầy của nhiều nhà thơ nổi tiếng khác: Tản Đà, Khương Hữu Dụng, Tchia- Đái Đức Tuấn v.v...  Ông đã dùng thứ ngôn ngữ khẩu ngữ tự nhiên, bình dân rất sinh động đời thường mà thể hiện được phong cách thơ rất hào phóng, bay bổng lại rất tự nhiên, tinh tế, giản dị và tình cảm phong phú mãnh liệt của bậc thi tiên nên đọc lên nghe rất “đã đời”:

Người đời ơi đắc chí cứ vui tràn
Chớ để ráo chén vàng khuya trăng ngó
Trời sinh ta tài không để bỏ
Nghìn vàng vung tay trắng xòe lại có
 Nướng dê mổ trâu mà thêm vui
Họp uống nài nhau ba trăm chén một hơi

    Riêng bài thơ “Vịnh Kiều”, một bài thơ rất nổi tiếng của Phạm Quí Thích  mà tác giả PQT tự dịch Nôm rất hay, nhưng  Hữu Loan chưa hài lòng với câu cuối bản dịch. Ông cho rằng: “Tân thanh đáo để vị thùy thương” thì là thương ai? Thương Nguyễn Du hay thương nàng Kiều? Hay thương cả hai? Và ông cũng đã dùng  nhiều từ ngữ bình dân, đời thường để dịch bài thơ nầy,  trong  câu cuối  ông gọi Kiều bằng em mà sau nầy có người cho rằng ông dịch rất ngông. Còn ông thì cả cười:  “Mình là con cháu Nguyễn Du mà gọi Kiều bằng em kể cũng thú vị đấy chứ!”:

Một mảnh tài tình thiên cổ lụy
Khúc này đứt ruột phải vì em

   Nhiều bài thơ Đường khác cũng đã có nhiều bậc thâm nho và các nhà thơ đương đại dịch rồi: “TỐNG HỮU NHÂN” của  Lý Bạch (Khương Hữu Dụng dịch); “THU HỨNG 1” của ĐỖ PHỦ (Nguyễn Công Trứ dịch); “THU HỨNG 4” của ĐỖ PHỦ (Từ Diễn Đồng dịch); “Hoàng hạc lâu tống Mạnh Hạo Nhiên chi Quảng Lăng” (**) của Lý Bạch (Ngô Tất Tố, Trần Trọng San, Trần Trọng Kim, Khương Hữu Dụng, rồi sau nầy là Trương Nam Hương, Lê Thiên Minh Khoa dịch…), nhưng bản dịch của ông vẫn có nét độc đáo, ý vị riêng… 
    Những bài Đường thi ông dịch chép tay để lại được Phong Hồ - Lê Viết Dương, lúc đó là Thủ đình của Hội thơ Lan Đình giữ, còn chúng tôi thì chuyền tay nhau chép tay lại. Phong Hồ sau nầy về Sài Gòn rồi phụ trách Trang Thơ Đường báo Đại Đoàn Kết và các Hội thơ Đường trên  toàn quốc của Đại Đoàn Kết. Bây giờ Phong Hồ mất rồi (1953-2001), những di  bút thơ dịch của Hữu Loan hồi đó biết có còn chăng?  Nhưng may quá, nhờ vợ chồng Nguyệt Cầm - Phạm Hoan còn giữ lại di ảnh, di họa, di bút những bài thơ của ông, trong đó có những bài ngắn ông viết tặng lúc ở Bà Rịa. Lát nữa, mời bạn đọc thưởng lãm vài di ảnh, di họa, di bút trong số đó  và cả những bài thơ dịch của Hữu Loan mà chúng tôi chép lại được
             
NHỮNG BẢN DỊCH THƠ ĐƯỜNG nhà thơ HỮU LOAN chép tay để lại Bà Rịa.

MỜI  RƯỢU
(Hữu Loan “Tương Tiến Tửu” của Lý Bạch)

Thấy chăng ai, nước Hoàng Hà tuôn thác tự trời cao
Cuộn về khơi trái ngược làm sao
Thấy chăng nữa lầu cao trăng sáng thương cho tóc
Sáng mới tơ xanh chiều đà như tuyết
Người đời ơi đắc chí cứ vui tràn
Chớ để ráo chén vàng khuya trăng ngó
Trời sinh ta tài không để bỏ
Nghìn vàng vung tay trắng xòe lại có
Nướng dê mổ trâu mà thêm vui
Họp uống nài nhau ba trăm chén một hơi
Này Sầm Phu Tử, người Đan Khâu ơi
Đã uống thì luôn tay chén chớ rời
Cùng nhau ta hát khúc, nghiêng tai này bác lắng nghe tôi
                                         
Thức ngọc, mâm vàng, trống chiêng sao đủ quí
Ai tỉnh ai say suốt đời thề lúy túy
Trần Vương xưa ban yến Bình Lạc
Rượu đong đấu mười nghìn khách mê tơi khướt
Thánh hiền xưa nay các cái thảy đều im lìm
Duy đấng làng say danh lừng để
Như nghe chủ nhân thì thào thiếu tiền
Uống chớ lại vò, dốc nốt ta cùng mời tôi mời bác
Còn áo cừu nghìn vàng, còn ngựa hoa năm sắc
Hò trẻ đem luôn, rượu đậu tăm sang tất
Cùng bác ta tiêu muôn kiếp sầu đời.


VỊNH KIỀU
(Thơ Phạm Quý Thích, Hữu Loan dịch)         
                                               
Giai nhân há phải đến sông Tiền
Nửa kiếp khói hoa nợ chửa đền
Mặt ngọc nhẽ đâu dìm nước vạn
Lòng băng há phụ nghĩa chàng Kim
Đoạn trường tỉnh giấc, căn duyên hết
Bạc mệnh im đàn rú hận lên
Một mảnh tài tình thiên cổ lụy
Khúc này đứt ruột phải vì em

Hữu Loan dịch thơ của Lý Bạch HOÀNG HẠC LÂU TỐNG MẠNH HẠO NHIÊN CHI QUẢNG LĂNG


TẠI LẦU HOÀNG HẠC TIỄN MẠNH HẠO NHIÊN
ĐI QUẢNG LĂNG

Xuôi Dương Châu bỏ tây Hoàng Hạc                       
Tháng ba mây lũ lại xuôi ơi                                      
Buồm đơn bóng tít bầu xanh thẳm                             
Chỉ thấy dài sông chảy mãi thôi.   
               
Hữu Loan dịch TỐNG HỮU NHÂN của Lý Bạch

TIỄN BẠN

Non dựng xanh lũy Bắc
Nước lượn phau thành Đông
Biệt nhau non nước ấy
Muôn trùng khơi chiếc bồng
Người đi mây du tử
Tình về chiều chiều trông
Vẫy tay thôi cất bước
Ngựa đi nghe xông xông.

Hữu Loan dịch THU HỨNG I của ĐỖ PHỦ

CẢM XÚC MÙA THU 1

Sương bạt rừng phong khua lá cây
Ngàn Vu sương lóa, khí thu dày
Lưng trời tung sóng, triều sông thẵm
Ải khói giăng thành, đất rợp mây
Cúc nở đôi phen, ngày lệ tủi
Vườn xưa thuyền chiếc, buộc niềm tây
Nơi nơi áo rét, rèn dao thớt
Bạch Đế chiều lên, khẩu muộn chày.

Hữu Loan dịch THU HỨNG 4 của ĐỖ PHỦ

        CẢM XÚC MÙA THU 4

Dân kháo đua xưa thiếu chuyện gì
Trò đời trâng tráo nút tai đi
Lâu đài sông núi sang tên số                                       
 Bôi lọ râu ria đổi nạ hề                                                   
 Cởi dép xách giày phang mặt trống                              
 Quân đi đội đụn biển đông về                                      
 Cá rồng thin thít sông thu lạnh                                     
 Nước tổ ai làm đến cảnh kia.                                  
                                
Vài  DI BÚT, DI ẢNH, DI HỌA… của  nhà thơ HỮU LOAN cuối thập niên 80 ở Bà Rịa

 
               Nhà thơ Hữu Loan qua ký họa của HS Phạm Hoan


       Nhà văn Phạm Thị Nguyệt Cầm và nhà thơ Hữu Loan
                      tại Trại sáng tác Long Hải, 1991


    
               Di bút: 2 bài thơ “Những tháp chuông giáo đường” và “Hoa lúa”


         
                Hữu Loan vẽ minh họa cho“Ngày hợp hôn anh mặc đồ hành quân”

  ...............

Phụ chú:

 

(*) Bài xướng:

KHAI HỘI

(LAN ĐÌNH THI HỘI)

 Bến sông dựng tạm một nhà sàn
Tre nứa đơn sơ buộc mấy hàng
Mượn chữ Lan Đình mừng bạn đến
Nhờ thơ xướng họa gởi tình sang
Dẫu không gác tía không người ngọc
Thì cũng trăng thanh cũng bạn vàng
Núi dựng thành xa bờ lặng sóng
Tiếng thơ đồng vọng mãi không tan

               Hội Thơ Lan Đình Bà Rịa

(**) Nguyên văn, phiên âm, dịch nghĩa và các bản dịch bài “Hoàng Hạc lâu tống Mạnh Hạo Nhiên chi Quảng Lăng” của Lý Bạch:

Nguyên văn:

黃鶴樓送孟浩然之廣陵 
故人西辭黃鶴樓,
煙花三月下陽州。
孤帆遠影碧空盡,
惟見長江天際流。

Phiên âm:

Hoàng Hạc lâu tống Mạnh Hạo Nhiên chi Quảng Lăng
Cố nhân tây từ Hoàng Hạc lâu,
Yên hoa tam nguyệt há Dương Châu.
Cô phàm viễn ảnh bích không tận,
Duy kiến Trường Giang thiên tế lưu.

Dịch nghĩa:

Bạn cũ từ biệt tại lầu Hoàng Hạc đi về phía tây,
Tháng ba hoa khói, xuống Dương Châu.
Bóng chiếc buồm đơn màu xanh mất hút,
Chỉ thấy Trường Giang vẫn chảy bên trời.

Bản dịch của Trần Trọng San:

Bạn cũ dời chân Hoàng Hạc lâu
Tháng ba hoa khói xuống Dương Châu
Bóng buồm chìm lẫn trong trời biếc
Chỉ thấy Trường Giang vẫn chảy mau

Bản dịch của Trần Trọng Kim:

Phía tây bạn biệt Hạc lâu
Tháng ba trẩy xuống Dương Châu thuận dòng
Cánh buồm bóng hút màu không
Trông xa trắng xoá nước sông bên trời

Bản dịch của Ngô Tất Tố:

Bạn từ lầu Hạc lên đường
Giữa mùa hoa khói châu Dương xuôi dòng
Bóng buồm đã khuất bầu không
Trông theo chỉ thấy dòng sông bên trời

Bản dịch của Khương Hữu Dụng:

Hoàng Hạc lầu xưa bạn cũ rời
Dương Châu hoa khói tháng ba xuôi
Buồm đơn bóng hút vào xanh biếc
Chỉ thấy Trường Giang chảy cuối trời

Bản dịch của Nguyễn Kỷ Niệm:

Bạn cũ rời tây Hoàng Hạc lâu,
Tháng ba hoa khói, xuống Dương Châu.
Buồm đơn, bóng lẫn vào mây biếc,
Chỉ thấy Trường Giang xuôi mãi đâu...

Bản dịch của Trương Nam Hương:

Từ tây lầu Hạc - người xa
Tháng ba hoa khói xuôi nhòa Dương Châu
Chấm buồm hút thẳm xanh sâu
Thấy Trường Giang vắt ngang bầu trời trôi

Bản dịch của Lê Thiên Minh Khoa:

Cố nhân xa lầu Hoàng Hạc rồi
Tháng ba hoa khói Dương Châu xuôi
Buồm đơn xa khuất bầu không biếc
Chỉ thấy Trường Giang hút cuối trời.


 (Trích trong cuốn sách “Lại Nghĩ Về Thơ” – tiểu luận, phê bình – Lê Thiên Minh Khoa, sắp xuất bản, 2019, trang 32-43)

                                                                      Lê Thiên Minh Khoa

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

POST HÌNH HOẶC VIDEO CLIP VÀO Ô COMMENT :

Các bạn chỉ việc copy link hình hoặc link video clip dán trực tiếp vào ô comment mà không cần dùng thẻ