Trang

Thứ Sáu, 3 tháng 8, 2018

KÝ ỨC VỀ QUẢNG TRỊ - Huy Uyên









Bút danh: Huy Uyên
Tên: Lê-Sinh
Học Đại-học Văn-Khoa Huế
Thơ trên bán nguyệt san Văn từ 1969.
Khởi-Hành, Thời Tập, Thời Nay...     


1-
 THỜI MỚI LỚN

    Ở giữa làng là xóm chợ. Bên cạnh đường quốc-lộ vắt ngang. Mùa đông về trên những chòm hoa sầu đông đứng lặng lẽ.
 Ký ức trong tôi với những tháng ngày hai buổi đi về. Chiếc cầu sắt bắc qua sông và một chiếc cầu xi-măng bên dưới đã gãy nhịp từ thời Pháp thuộc. Con sông Ô-lâu hiền hòa chia hai xóm,nước êm đềm chảy qua bốn mùa yên ả. Những bờ tre làng rợp bóng soi mình trên mặt nước trong xanh.
 Lòng cứ nhớ mãi về những mùa đông làng xóm chìm ngập một màu trắng xóa vì cơn lụt. Những chiếc thuyền bơi xuôi ngược giữa đại dương nước mênh mông. Nước bạc màu đến bất ngờ, nước tuôn vào sân, vào nhà rộn vang những tiếng bì bõm khi lội trong nước. Làng trên xóm dưới gọi nhau í ới.
Mùa xuân đã đến ngoài hiên và nước vẫn ngập đầy vườn. Đâu dó tiếng nghé ọ trên cánh đồng vàng mùa bội thu.Tiếng hò đối đáp rộn ràng trong mùa gặt. Tiếng kẽo kịt của những chiếc đòn gánh nhún nhảy trên những đôi vai người nông-phu. Những bát nước chè xanh bốc khói bày ra trên sân với đêm đập lúa. Những ông già rung rinh chòm râu bạc khề khà nhấp chén rượu đầu mùa.

Đêm treo lơ lửng ngọn trăng trên đầu, trăng bàng bạc khiến không gian càng tỉnh lặng. Trăng soi sáng vườn khoai đang bắt đầu xanh ngọn, vườn chè xanh biếc dưới ánh trăng dịu hiền.Những bờ tre trở mình rên kèn kẹt. Làm sao nói hết cái lâng lâng giữa đêm trăng qua làng quá mường tượng, kỳ ảo. Thoảng dưới ánh trăng tiếng hò giả gạo, khoan hụi dìu dặt rộn niềm vui ngày mùa.
 (Con đường đó tôi và em từng dìu bước nhau đi biết bao lần. Con đường của kỷ-niệm ngàn đời ẩn nấp trong tim đứa con trai thời mới lớn. Lời thề xa xăm. Mai sau nếu có xa nhau cũng không quên con xóm cũ dòng sông xưa với chiếc cầu đi về hai xóm. Thế rồi em đã ra đi, đi biền biệt với một khung trời đầy kỷ -niệm cháy bỏng trong tôi. Lời thề hẹn đó đã vội vàng chôn ở nơi con dốc đầu làng khi hai đứa cầm tay từ biệt và đã ở lại đó vĩnh-viễn. Tôi cũng ra đi ôm theo mối tình đầu đau đớn, đứng ngắm nhìn quá khứ chưa một lần trọn vẹn. Hỏi em giờ này còn nhớ gì không, quê hương hai tiếng nặng lòng cho đến lúc nhắm mắt. Quê hương với những sớm mai, những chiều về tay trong tay kể nhau nghe những chuyện vui buồn, những ước mơ thời trẻ dại. Lần đầu gặp em e ấp dưới chiếc nón lá, áo dài màu tím với nụ cười long lanh dưới nắng chiều, hoàng hôn rãi cùng khắp xóm làng. Em đã mang đến cho tôi ngày mà cuộc đời bắt đầu biết vui buồn chờ đợi).
 Chiến tranh đã đi qua làng ngày đêm đì đùng tiếng súng. Chiến tranh đã cướp đi tháng năm bình lặng, yên ả.Trai tráng lên đường để lại những cánh đồng trơ gốc rạ. Trâu bò không người cày lơ lửng bước trong đêm.
 Con đường qua làng nhiều lần bị cắt chia bởi đạn bom và chiếc cầu bỗng một đêm bị gãy nhịp phân chia hai xóm. Những tiếng khóc và những chiếc quan tài mang dấu hiệu binh lửa về đốt cháy quê hương. Những mái  tranh ngập chìm khói lửa. Mặt trận đi qua bỏ lại xóm làng xơ xác gảy đổ. Giáo đường trơ nóc, đình chùa ngã nghiêng.
 Những trảng cát bây giờ đã lấp đầy những ngôi mộ nằm san sát. Những hàng bạch-đàn mọc thẳng tắp thay thế tre làng bị thiêu cháy. Lớp lớp người đi không trở về mà còn nằm lại đâu đó. Biệt ly và chia rời ngày một lớn dần thêm, xóm nhỏ bỗng tiêu điều sau những cơn đánh phá của bom Mĩ.
Rồi người cũng quay về khi một mai tin vui hòa-bình trở lại. Trên bờ đê những trai tráng trong làng vai vác cày theo sau đàn trâu chậm rải bước. Đồng quê lại rộn ràng tiếng cười tiếng nói sau mùa binh lửa. Những cụ già lại khề khà chén rượu bên bầy con cháu vui đùa ngoài sân. Con đường về xóm dưới bây giờ đã được bắc qua sông một chiếc cầu chắc chắn thay chiếc cầu tre đã gảy nhịp từ lâu rồi. Ngày tôi đưa em qua chiếc cầu này với bao rộn ràng của con tim mới lớn. Em bảo giá mà hai ta suốt đời đưa đón đi về. Thế rồi em bỏ đi mà không bao giờ quay lại.
Sông xưa vẫn nước chảy hiền hòa. Sông nuôi đồng ruộng quanh năm. Núi kia vẫn ngàn đời lừng lững che chắn những cơn gió Lào rát bỏng mùa hè. Hàng tre làng vẫn kẽo kẹt rung rinh trước gió. Tre che mát cho đời người nông phu quanh năm suốt tháng. Trong vườn đã lắt lay từng nụ hoa cà, hoa bí mang lại cho người niềm vui bình dị. Những mùa đông sớm mai bà con với những cũ khoai luộc hay những bắp ngô nướng thơm giòn. Niềm vui ấm áp nhân đôi với tiếng hít hà phả ra những làn khói trắng trên đường đến trường.  Thầy cô, bạn bè  đã bay đi khắp bốn phương trời, mỗi người một đoạn đời riêng rẻ. Có mấy ai quay về đúng trước mái trường xưa để ngậm ngùi với những tàn phá của ngày xưa cũ.
Ở đầu làng là ga xép quanh năm phơi mình dưới trảng cát trắng xóa nóng, nằm chờ những chuyến tàu qua hiếm khi dừng lại. Vẽ đìu hiu trùm lên vài người khách lẻ lên xuống từ đầu hạ đên cuối đông. Một mình đi, một mình về thui thủi. Lòng lại nghẹn khuất với những hồi còi tàu kéo lên giữa không gian xám xịt. Tiếng còi như ứ nghẹn ở trong tim. Ôi những tiếng còi tàu buồn bã qua làng đến não nuột. Ngày tôi tiễn em đi sân ga chỉ có hai người. Tay trong tay bịn rịn nói lời chia biệt hẹn hò. Em nước mắt lưng tròng ngã lên vai tôi. Chiếc khăn tay em thêu tên hai đứa lồng vào nhau nghẹn ngào đưa tay vẫy khi tôi làm người ở lại. Con tàu bỏ đi mang theo em làm cho tôi thêm quạnh hiu tiếc nhớ. Ngày đó đã qua mất rồi.
Cô đơn xưa hình như trở lại  quanh đây. Nơi đó tít mờ ánh sương mai, nơi ánh nắng chiều rọi soi ngày đầu tôi gặp em lung linh dưới nắng. Nụ cười rạng rỡ tỏa sáng quanh em. Làm sao tôi nói hết nỗi bồi hồi lao xao với một buổi chiều đầy kỷ-niệm.
Em còn đó với hiện thân của một bóng hình miên viễn quanh tôi. Vẫn dịu dàng với hai bàn tay vẫy, vẫn đong đưa từng nhịp bước, từng tiếng thở dài về một mối tình đến sớm đầy tràn niềm hạnh-phúc mong manh của thời trẻ dại.
Ngày tôi đưa em qua chiếc cầu chông chênh, không lối nhỏ về nhà. Em chợt im lặng níu giữ một mối tình vừa mới hái. Hạnh phúc quá mỏng manh, sương khói. Ngày em đi qua nhà tôi, bước chân không hề có tiếng động dấu kín một mối tình. Em trong tôi cuộc tình đầu chứa chất bao đắng cay khốn khó
 Tôi một mình biết bao lần quay lại nơi xưa tìm kiếm mối tình đầu đời dù trải qua những tháng năm dâu bể, ngược xuôi. Em về một phương trời xa xăm nào đó để lại trong tôi ánh mắt nụ cười. Điều đó đã theo tôi suốt đoạn đời còn lại, đã mang trong tôi dấu ấn đậm đà mãi mãi xa người. Hỏi em có còn nghĩ lại, hỏi em có còn nhớ về ảnh hình của thời xưa cũ, giấu trong tim hết cả thời mới lớn.
 Em đi rồi làng xóm bỗng chìm khuất trong nổi buồn lặng lẽ. Không gian bổng chìm sầu vạn cổ. Những ước mộng ban đầu, đắng cay theo bóng hình em. Có thể trong tôi vẫn mãi giữ những kỷ-niệm buồn. Có thể trong em vẫn ẩn chứa hình dáng quê hương. Nơi đó được đặt tên là nơi trú ngụ của tình yêu.
 Có chăng mong một lần quay lại, trở về bên sông cũ,  xóm nghèo xưa để nhớ để nghĩ về cuộc tình tan vỡ. Đau đớn cho đến lúc bạc mái đầu có còn để gọi nhau là cố nhân không ?
 Ở giữa làng là xóm Chợ nơi em ngày hai buổi sáng chiều bán cá. Vẫn khuôn mặt đỏng đảnh, nụ cười chúm chím. Em đã để lại trong tôi mãi hoài của những nụ hôn xa, của con tim liên hồi đập mỗi lần đón đợi người thương. Em còn lại trong tôi những đêm trăng hò hẹn, những đêm lễ hội, lòng hồi hộp dưới ánh trăng cổ tích. Tay cầm tay không nói thành lời chờ một thủy chung mai mốt. Thế rồi em đi. Xóm làng xưa vẫn bên cuối bãi biền sông. Con sông xưa vẫn đổ từ triền núi ra biển cả.
Ngày đó ai mơ một ngày về.

2-
QUÊ NHÀ VÀ TRƯỜNG LỚP:
Bến Đá,  Hải-Lăng & Nguyễn-Hoàng.
    Lần lửa hẹn mãi lòng một lần quay về với Bến-Đá. Nơi quê nhà xưa đã một thời tắm mát bên dòng sông Ô-Lâu xanh biếc hiền hòa. Nơi những người thân hai mùa mưa nắng dầm mình đồng chiêm cày ải. Nơi tiếng chim bìm bịp kêu chiều theo con nước ròng nước lớn. Nơi tuổi thơ tôi vốn sinh ra trong một gia đình lam lũ nghèo nàn.
 Tôi mất cha từ năm lên một. Cha tôi hi sinh ở mặt trận Ba-lòng thời kháng chiến chống Pháp. Mẹ tôi ở vậy tảo tần sớm hôm nuôi tôi khôn lớn. Những đêm, những ngày quanh quẩn sau lũy tre làng với con đường quê hai bữa đến trường. Ngoài những buổi học tôi phụ mẹ tôi bắt ốc mò cua,mót khoai mót lúa. Cuộc sống cơ cực ở thôn làng đã rèn luyện cho tôi nên người từ thuở đó.  Đến năm mười hai tuổi mỗi ngày tôi phải đi bộ mười cây số ra phố quận Hải-lăng để theo bậc trung-học.Tháng ngày dãi dầm mưa nắng. Những ngày hè oi bức mồ hôi trên con đường cái quan rãi nhựa bốc khói.  Những sớm mai ,chiều đông rét lạnh căm căm tôi bó mình trong chiếc áo tơi do tôi chằm từ lá nón, lầm lũi bước với bụng đói lép kẹp cho đến ngày khôn lớn. Tuổi học trò trôi đi với những buổi trưa đói lòng qua bữa bằng một chiếc bánh chưng nhỏ dưới gốc bàng trước đình làng Diên-sanh thật tội-nghiệp.
 Người ta gánh về đặt bên ngoài hàng rào phía tây dồi cát của trường chừng mười xác chết. Những vết đạn băm đầy mình cháy đen nham nhở. Người ta bảo đó là Việt-cộng bị sát hại bởi trận phục-kích đêm qua. Những xác chết nguội ngắt trần truồng.  Ai đã cắc cớ gắn trên môi người chết những điếu thuốc lá còn bốc khói nghi ngút. Nắng bắt đầu rát và những xác chết cũng bắt đầu trương lên. Ký-ức tôi xót đau cho phận người từ đó. Ý nghĩa về chiến tranh cháy đỏ trong tôi về một sự hi sinh đầy máu, nước mắt của hai phía, của nhân dân lớn dần lên. Trong cuộc chiến trả giá bằng những cái chết, mất mát đau thương để dành lấy sự tồn tại.  Chính là những người đang nằm đó. Cũng là người mà ai nỡ đầy đọa nhau dường ấy.
 Hận thù cứ buộc mãi mà không bao giờ tháo bỏ. Tôi bắt đầu lớn lên bằng những ý niệm chiến tranh giữa những người anh em thù hận trong không khí chiến cuộc đầy mùi thuốc súng, phía sau rình rập đêm đêm ở làng quê cho đến phố chợ vốn nghèo lại càng nghèo xơ  xác. "Phố nhỏ Diên-sanh lạnh buồn tê tái"  giữa bốn mùa xuân hạ thu đông im lìm lặng khuất rêm mình dưới thời chiến. Lại những đợt hành-quân càn quét. Quê nhà vốn đã chìm sầu trong khói lửa-cây không mọc nổi giữa hai làn đạn, ruộng không người cày vì người đã bỏ lên núi. Trâu bò lơ lửng bước trong đêm nhớ về một mùa vàng bội thu, êm đềm dưới trăng đêm giã gạo. Hồi đó quê nhà bình yên đầy ắp giọng nói tiếng cười.
 Thế rồi đầu năm sáu lăm tôi được ra tỉnh học lớp tú-tài.  Hình ảnh ghi đậm trong tim tôi là ngày bác (Sáu) tôi đứng bồi hồi chờ trước cửa trường nam-tiểu-học khi tôi thi Trung-học. Bác vốn thay cha tôi cùng mẹ tôi bảo ban nuôi nấng tôi nên người, bởi tôi vốn không cha từ lúc lọt lòng. Trưa bụng đói bác đưa cho tôi ổ mì"xíu" mà lần đầu trong đời tôi được ăn. Cái hương vị tuyệt vời mãi đi theo tôi cả chiều dài năm tháng. Cái mùi cay bùi đó không làm sao tôi quên được. Chiều trời đổ mưa tôi gói mình trong tấm ni-lông màu nước mắm băng qua đường gặp bác, hai mắt của bác nhìn tôi ứa lệ với cảnh tình túng thiếu của tôi. Bác nhẹ nhàng cởi tấm ni-lông rồi lặng lẽ mặc cho tôi chiếc áo mưa  (đầu đời) hiệu Blair màu khói hương. Tôi nuốt nước mắt vào lòng, mừng vui khôn tả.  Tôi lặng thinh nắm lấy tay bác đi bộ về chỗ trọ lòng đầy bồi hồi xúc động. Kỳ đó tôi đỗ trung-học.
Để có cơm ăn tôi đi làm precepteur suốt ba năm học trường Nguyễn-Hoàng. Với một bà mẹ quê quanh năm ruộng lúa nương khoai lo cho cái ăn cái mặc thì làm sao kham nổi cho con ăn học xa nhà nên đành phó thác tôi cho trời cho đất. Những ngày đầu bỡ ngỡ với lớp với trường tôi xoay quanh với nghề gia-sư ở nhà sách Tao-đàn, đêm kèm ba đứa nhỏ tiểu-học. Cho đến năm đệ-nhị thì chuyển lên kèm cho một gia đình xóm chài Quảng-trị. Cái xóm chài ven sông Thạch-hãn cứ theo mãi tôi đén bây giờ, những con đò nằm sát bên nhau nơi bến đổ đầy... và rong rêu dại dập duềnh theo từng đợt sóng lô xô. Những bữa cơm trưa với hạt gạo chan mùi dầu diesel nhà binh thiếu đói.
Nhà tôi dạy kèm vốn nghèo nên nữa niên khóa sau tôi ghi tên ăn cơm xã-hội miễn phí và thuê một cái giường để ngủ và học hàng ngày. Vì đói mà tôi đã cố nuốt cho qua bữa cá mòi, cá mối sình thiu.
Cuối ngã ba đường là MACV,  từ cine Đại-chúng, từ Cổ-thành đi lại và từ Long-Hưng ra là Nguyễn-Hoàng.Tôi học ban C nên được xếp học ở dãy nhà dọc phía trái, có cái cổng phụ rất dễ cho những lần cúp cua lang thang ngoài phố. Tôi vốn không có một bạn gái nào để vắt vai một mối tình, vì nghèo đói vì thân phận hẩm hiu. Đám nữ sinh quá cao vời vợi với tôi. Cứ mỗi chiều cuối tuần tôi háo hức về lại quê nhà, bên mâm cơm nghèo cùng mẹ tôi với những trái cà đọt bí. Hương vị của đất trời tỏa một mùi thơm dìu dịu. Hình như để bù lại cho những ngày ở tỉnh-lị thiếu đói mẹ tôi lại chạy vạy lo cho từng bát cơm có trứng, có cá.
Ở trường tôi có  thầy cô quan tâm đến phận nghèo như cô Thanh, thầy Gary Carkin, thầy Diên, thầy Nguyễn-đăng-Ngọc. Hình như chỉ có Việt và Anh văn là tôi chăm chú học còn các môn khác tôi lại lơ đểnh, nhất là môn vạn-vật vì thế mà năm thi tú tài tôi bị thiếu điểm của cô Toàn. Thật nghiệt ngã
Hồi này tôi bắt đầu có thơ trên các báo Sài-gòn.Tết đó tôi viết bài thơ buồn:

    NÓI VỚI LỚP HỌC

    Dĩ vãng đó xin người đem dấu kín
    Kỷ niệm buồn đứa con nhỏ hoang mê
    Đến với người bằng tháng ngày đông tím
    Bằng hạ buồn bằng thu chết ngất ngư.

    Tôi chong mắt nhìn đời mình ở đó
    Lớp học buồn khuôn mặt lạ trầm ngâm
    Ghế bàn trơ im lìm lên nước gỗ
    Buồn lưng đầy theo từng tháng từng năm.
    ....
    Người về đó xem xóm làng tôi gục chết
    Bầy trâu nghèo lơ lửng bước trong đêm
    Ruộng cằn khô bên từng khoang mạ cháy
    Người bỏ đi nhung nhớ cả trăm miền.

    Xin dung tha một đời tôi vô phước
    Sớm xa người về trong cảnh nát tan ....

 Thời gian cứ mãi trôi đi, đi mãi cho đến một ngày tôi cũng bỏ trường mà đi sau những năm tháng sống cực nhọc, gian khó. Có ai biết đến một đứa con Nguyễn-Hoàng trong bỗng chốc thấy mình cô đơn quá đổi giữa một quê hương đầy súng đạn nghèo đói. Ngày mai không có đường về. Lại những lần ra đứng thơ thẩn bên sông Thạch-hãn. Nhìn bên kia ẩn hiện ngôi chùa Sắc-tứ thong thả từng hồi chuông. Những hàng cây liêu xiêu, dòng nước lững lờ.
 Những đứa con xưa của Nguyễn-Hoàng có lẽ đã đơm hoa kết trái trên vạn nẻo đường. Tiếp nối mãi về một thân tình ấm áp, mãi cầm tay nhau cho dù tuổi đời đã sửa soạn về chiều. May thay vẫn còn lại những trái tim người đầy nhân ái và đậm đà thủy chung tình bạn, tình thầy trò.
 Đoạn viết này xin được gởi đến cô Thanh để nhớ đến một đứa học trò đã từng khốn khó.
 Những tháng ngày đói ốm, cơm thừa cá cặn lại diễn ra với đời sống thiếu thốn ăn nhờ ở đậu. Đến nỗi tôi không có một bộ đồng-phục, quần-xanh-áo-trắng để đi đến trường mà mặc toàn đồ cũ xì. Thầy cô hàng ngày đã nhẵn mặt tôi, một đứa học trò nghèo khó. Lần tôi nhớ nhất là lần cô giáo Thanh - dạy Pháp-văn,  sinh-ngữ phụ gọi tôi lên trả bài nhưng tôi không biết một cái gì cả. Cô bảo tôi ở lại sau giờ học, sau khi tôi trình bày về hoàn cảnh thiếu đói đi làm gia-sư nên không có đủ sức để học. Cô thông-cảm và bảo ban tôi như một người chị với đứa em có cảnh đời tội-nghiệp cho dù nghèo khó vẫn ham muốn đến trường đến lớp. Đã nhiều lần cô tìm cách giúp đỡ tôi. Thế hệ Nguyễn-Hoàng dường như ai cũng biết cô Thanh. Những cảm thông của cô đã chắp cánh cho tôi sau này bay lên với cuộc đời vốn không hề bình-dị.
 Lại những lần đổ quân bên sân bay dã chiến cạnh trường. Chiến cuộc hồi này đã ác liệt. Những tiếng nổ đêm đêm vọng về thành-phố. Tiếng đại-bác gầm rú đêm ngày tù phía rừng núi. Những xác chết những thương binh ngập ngụa mùi tử khí.
 Tôi hỏng tú-tài năm đó và chỉ có hai cách là lên rừng hoặc bị động-viên-trừ-bị vì hồi này miền Nam rất cần những tấm bia người đỡ đạn ngoài mặt trận cho một chính-quyền vốn rệu rã...
 Ngày tháng rồi cũng đi qua, nhiều lần tôi đã về ngồi lại bên sông, bên chiếc cầu tre gãy nhịp nhìn dòng nước chảy, nhìn bóng chiều tà đậu dài hai bên bờ ngẫm nghĩ đến đời mình cho đến khi chiều tối. Tôi vốn sinh ra nơi quê nghèo, nơi đây ngày xưa ăm ắp những tiếng hò mái nhì mái đẩy, gạo trắng trăng thanh, thế nhưng sau chiến cuộc mọi chuyện đã đổi thay không còn nữa. Biết đến bao giờ, đợi đến bao giờ cho quê nhà thay da đổi thịt.
 Quê ơi cứ hẹn một lần về.

3-
VÀO ĐỜI
Khi qua khỏi cầu Mĩ-chánh,  ngã ba con lộ không vui là quê làng tôi.Hơn bốn mươi năm trước trường Trung-học Hải-lăng nằm sát bên con đường đó đối mặt với huyện lị Hải-lăng với hàng kẻm gai chằng chịt. Năm một ngàn chín trăm sáu mốt,  trường được xây trên bãi cát mọc đầy xương rồng lẩn hoa mua sim dại. Hàng dương dập dìu trước gió, trống trường điểm từng hồi. Tuổi thơ bồng bềnh phiêu hốt về một ngôi trường bé nhỏ nép mình trong thời buổi chiến-tranh loạn lạc.
Tôi trở về đây,chốn xưa đã thành một khu mới. Giữa ngã ba đi về khi xưa không tìm đâu dấu vết của ngôi trường cũ. Ngày đó thời bé nhỏ ngày hai buổi đi về cùng bè bạn thầy cô chung vui trường lớp,xẻ chia đau thương mất mát một thời súng đạn. Trong nỗi đau chung của Hải-Lăng từ cuộc chiến huynh-đệ tương tàn trong đó có ngôi trường mẹ Hải-Lăng.
Ngày ấy làm sao nói hết những chiều thu hạ đến xuân đông ở phố nhỏ Diên-sanh lạnh buồn. Ở giữa ngã ba đường quốc-lộ băng ngang là những mái ngói của một thị trấn nhỏ buồn. Ở dưới gốc đa già là bến xe nho nhỏ hằng ngày đi về tỉnh lị. Bên cạnh đó là ngôi đình làng trầm lặng với những cây bàng lớn hơn vòng hai người ôm. Những buổi lên lớp nắng xiên mai chiều cát gió, một tiếng trống, một tiếng còi tàu để lại cô quạnh thêm cho con phố nhỏ. Ở nơi đó những Lộc,  Hoa của Mai-đàn,Tục, Tiếp của Trung-đơn đã đi qua và đã nằm xuống. Một thế hệ buồn !
 Ngôi trường bị xóa bỏ từ mùa hè đỏ lửa 1972 , sau đó thì vĩnh viễn chết ở cái huyện lị nghèo này.  Những cánh chim bay không mỏi mãi nhớ về trườn g xưa.Ở đó tôi vẫn nhớ về từng hồi chuông nhà thờ đổ trong những mùa giáng-sinh từ nhà thờ cha Minh, tiếng chuông ngân nga tít mãi tận đồi cát bên kia. Đã chết đi những bóng hình xưa cũ, còn chăng chỉ còn lại những đám mây trời trôi ngang qua đầu.
Cảnh cũ muôn năm đi vào cổ-tích của nhớ nhung hoài niệm.

                                                                             Huy Uyên
                                                                           (1961-2015)

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

POST HÌNH HOẶC VIDEO CLIP VÀO Ô COMMENT :

Các bạn chỉ việc copy link hình hoặc link video clip dán trực tiếp vào ô comment mà không cần dùng thẻ