BÂNG KHUÂNG

CÁM ƠN CÁC BẠN ĐÃ GHÉ THĂM, ĐỌC VÀ GHI CẢM NHẬN. CHÚC CÁC BẠN NĂM MỚI GIÁP THÌN 2024 THÂN TÂM LUÔN AN LẠC

Thứ Ba, 10 tháng 4, 2012

ẤN TƯỢNG LA GI - Cao Huy Hoá



       Những ngày đầu xuân vừa qua, chúng tôi đến thăm Lagi, một thị xã thuộc tỉnh Bình Thuận, ở phía nam và cách Phan Thiết gần 70 km. Niềm vui trước tiên là hưởng được nắng ấm và tắm biển trong khi ở quê nhà mùa xuân thì đẹp nhưng lạnh và mưa lất phất. Sáng tinh mơ, trước mặt chúng tôi là biển cả mênh mông, chân trời ửng hồng, mặt trời như quả cầu đỏ dần dần lên khỏi mặt biển. Những con thuyền đánh cá trở về muộn. Sóng nhẹ, chúng tôi tắm biển, mát mẻ, sảng khoái.
Đối với người bình thường ở mọi miền đất nước, Lagi chưa là địa danh quen thuộc, ít ai đặt chân đến vùng này. Tuy nhiên, Lagi cũng như hầu hết dãi đất ven biển của tỉnh Bình Thuận đã càng ngày càng sáng lên trên bản đồ du lịch, hấp dẫn du khách vì biển xanh, hiền hòa, ấm áp quanh năm, nhất là du khách Nga ở xứ lạnh giá nên rất thèm biển. Ngay cả người Sài Gòn, không còn quanh quẩn ở biển Vũng Tàu, mà đã đến vùng biển này, với những resort, những khu du lịch hấp dẫn chạy dài, những địa danh ngày càng nổi tiếng như Kê Gà, Mỏm Đá Chim, Dinh thầy Thím, Tà Cú,…
            Lagi có cái gì hay hay, ngay cả tên gọi. Chữ viết là Lagi hay La Gi, đọc là La-Di. Phải chăng địa danh xuất xứ từ tiếng Chăm? Tôi hỏi những người quen ở đây thì cũng đồng ý như thế; có người cho rằng, theo người Chăm, chữ Tà chỉ núi (như Tà Cú, Tà Mon, Tà Dôn…), chữ La chỉ sông (như La Ngà, La Ngâu, Lagi…, Sông Dinh là sông lớn nhất chảy qua Lagi). Mảnh đất xa xưa đầy huyền thoại Chăm giờ đây là đất lành của những người định cư lâu đời lẫn những người tứ xứ. Người ở lâu đời gồm người Chăm và người các dân tộc thiểu số khác, người di dân suốt chiều dài lịch sử Nam tiến. Người đến sau này do chạy thoát chiến tranh ác liệt, cũng như do hoàn cảnh lịch sử: dân di cư từ miền Bắc, trong đó đáng kể là đồng bào theo Thiên Chúa giáo, Việt kiều hồi hương từ xứ sở Chùa Tháp, dân chạy nạn chiến tranh từ sau năm 1973 từ các tỉnh miền Trung, nhiều nhất là từ Quảng Trị, dân đến định cư làm ăn sau ngày đất nước hòa bình, thống nhất.

Lịch sử di dân từ xa xưa đã truyền tụng lại hai nhân vật được tôn thờ cho đến ngày nay, đó là vợ chồng Thầy Thím: “Theo sự tích, Thầy Thím quê gốc ở Điện Bàn (Quảng Nam), đức tài vẹn toàn. Dưới thời vua Gia Long năm thứ 2, gia đình Thầy bị kết tội tử hình oan. Trước giờ thi hành án, Thầy được vua ban một tấm lụa đào để múa từ biệt vua. Theo truyền thuyết, tấm lụa quấn lấy Thầy Thím và đưa vợ chồng Thầy bay vào phương Nam. Đến ngảnh Tam Tân (xã Tân Tiến, thị xã La Gi, Bình Thuận ngày nay), Thầy Thím cải trang thành một dân thường, từ đó Thầy giúp đỡ dân nghèo ở đây bằng cách bốc thuốc chữa bệnh, đóng ghe thuyền giúp ngư dân, khẩn khai đồng ruộng. Những năm sau ngày Thầy Thím mất, cứ mùng 5 tháng Giêng lại có hai con hổ về mộ Thầy thăm, rồi lại buồn bã ra đi. Biết ơn công lao Thầy Thím, dân làng đã lập đền thờ Thầy và thờ cả hai con hổ. Tiếng lành đồn xa, năm 1906 (đời vua Thành Thái năm thứ 18) vua đã hủy bỏ bản án oan trước đây và sắc phong Thầy “Chí đức Tiên sinh, chí đức Nương Nương Tôn thần”. Ngày nay, lễ hội Dinh Thầy Thím (lễ chính vào ngày rằm tháng 9 âm lịch) đã trở thành nét văn hóa truyền thống của không chỉ riêng người dân địa phương mà còn thu hút hàng trăm nghìn lượt du khách khắp nơi về xin lộc ơn phước của Thầy mỗi năm.”1
Ngoài dinh Thầy Thím, vùng Lagi còn có một điểm tham quan độc đáo là ngọn hải đăng Kê Gà. Đây là ngọn hải đăng thuộc loại cổ nhất và cao nhất nước ta, nằm trên một hòn đảo gần bờ, gọi là mũi Kê Gà, ở phía Nam và cách thành phố Phan Thiết 40 km, bằng đá, hình bát giác, được người Pháp xây dựng từ năm 1897 đến năm 1899, cao 66 mét (kể từ mặt biển đến ngọn đèn). Ban đêm, đèn có thể phát sáng xa đến 22 hải lý (khoảng 40 km) giúp tàu thuyền đi qua vùng biển này2. Ngọn hải đăng sừng sững giữa trời biển xanh bao la, giữa một quần thể đá trần trụi nhiều dáng vẻ. 


Sẽ thiếu sót nếu tôi không nói đến Hòn Bà, một đảo nhỏ hình con rùa ngoài khơi, khá gần (cách bờ khoảng 2 cây số) để mỗi lần ngắm biển, ta có thể thấy những cây cổ thụ xanh mờ xa xa; trên đảo có một ngôi đền thờ nữ thần Thiên Y A Na, cũng như có thờ tượng Phật Thích Ca, tượng Phật Bà Quan Âm.
 Vùng ven biển đầy nắng gió và hẻo lánh này, giờ đây đã trở thành một thị xã phồn thịnh, một thị xã có xe taxi phục vụ ngày đêm. Kinh tế mạnh là nhờ biển: biển cho hải sản dồi dào, phong phú, biển với bãi cát tốt và nắng ấm quanh năm làm cho ngành du lịch phát triển. Ấn tượng đối với tôi, dĩ nhiên là biển, là nắng gió đầu xuân thật nhẹ nhàng, cho chúng tôi được sống thoải mái, xa rời những chuyện thế sự. Một ấn tượng nữa  là cây thanh long. Những cánh đồng thanh long dài tít tắp, cây thanh long xanh ngắt bám rễ vào cột xi măng, vươn cao, tỏa rộng rồi thả mình lơ lửng, có nơi mới trồng, có nơi bắt đầu cho hoa, rung rinh trong nắng, tương tự hoa quỳnh – chỉ khác là hoa quỳnh nở ban đêm -, có nơi đã cho trái, làm cho hai màu xanh đỏ của lá và trái tương phản đậm nét dưới ánh mặt trời. Cây trái đã đãi đằng con người, thế mà con người còn muốn cây thêm năng suất, bằng cách cho đèn điện chiếu sáng, đánh lừa thanh long, lấy đêm làm ngày.
Chỉ có mấy ngày đến thăm Lagi, nhưng tôi cũng ghi nhận được vài nét đặc biệt của thị xã này. Dân miền biển da hơi ngăm ngăm, tính thật thà; giá sinh hoạt nơi đây nếu không vì kinh tế thị trường của ngành du lịch biển thì chắc là rẻ lắm. Dầu giá cả như thế nào thì bát cơm, tô canh, đĩa cá… thể hiện tính chất no đầy của nó, không đẹp đẽ cầu kỳ như kiểu một số quán ăn đất kinh kỳ dọn chén đĩa lớn, màu mè mà thực chất chẳng bao nhiêu. Ly cà phê cũng thế, đậm đà và dung tích đáng kể chứ không phải chút chút trên đáy, còn ly trà Lipton, nặng trịch với trái cam to bổ đôi. Một điều lạ là nhiều quán ăn dùng đĩa thức ăn để đựng nước chấm, chứ không dùng chén nhỏ. Có thể sống trong điều kiện thiên nhiên khoáng đạt và ưu đãi như thế, với một trình độ tổ chức xã hội chưa cao, con người có khuynh hướng sống mộc như bản tính chân thật của mình, cứ như tự nhiên mà sống. Đó là nếp sống của những cư dân lâu đời, của những đồng bào dân tộc gắn liền mảnh đất này từ xa xưa; có như thế đây mới là đất lành hội tụ biết bao người từ mọi miền đất nước. Tuy nhiên, ấn tượng của chúng tôi về thị xã miền biển này càng đẹp thêm nếu không có chuyện rác, chuyện túi ni lông được xả thoải mái khắp nơi, từ cửa hàng cà phê đến bãi biển, từ con suối đến vệ đường. Biển Lagi quả thật như một dung nhan thiếu chăm chút!

Lagi, nơi xa lạ đó không thể trở thành nơi quen thuộc nếu chúng tôi không nghĩ đến một người O, xa cách đã lâu, nay về già sống với con cháu ở Lagi. O đã cùng gia đình tôi lập nghiệp tại thị xã Quảng Trị từ thuở tôi còn thơ ấu; thế rồi chiến tranh khốc liệt đã đánh bật O đi, từ Quảng Trị vào Huế, đến Đà Nẵng, rồi cuối cùng vào đến Lagi với đôi quang gánh buôn bán lặt vặt, từ năm đồng ba trự cho đến sạp tại chợ, để ngày hôm nay, sáu người con đều thành danh. Gặp lại O sau mấy mươi năm xa cách, trời đã ngó lại và thương, 85 tuổi mà rất khỏe mạnh, lại còn pha chút ít phong lưu, trái với nét chất phác và khắc khổ của cuộc đời bán buôn nhỏ, chồng mất sớm, nhẫn nại nuôi con nước mắt lưng tròng. Hình như những người con của Quảng Trị đi nơi xa thì khá thành đạt, không những về kinh tế mà cả gặt hái chuyện văn thơ nhạc. Những người con của O cũng thế, cũng là người văn nghệ, và chính họ đã đưa chúng tôi đến một địa chỉ thơ, một ngôi chùa.

Như có duyên may, một vị sư trẻ người Quảng, vốn hành điệu ở Huế, năm 1990, đã dừng bước bên con suối Đó vắng vẻ, cảnh quan đơn sơ, cách khá xa trung tâm Lagi. Tên con suối cũng lạ, theo như một người sở tại cho biết: Suối chảy qua nhiều tảng đá to nên được đặt tên là suối Đá; sau này dân Quảng vào định cư ở gần con suối, phát âm tên suối gần như là Đó, cho nên sau này dân quen gọi là suối Đó. Thầy đã tậu được đám đất nơi này và ban đầu dựng một thảo am, thầy cao hứng đặt tên là chùa Đây, “Chùa Đây – Suối Đó nằm ru hát thiền3. (Tên chính thức của chùa là Thanh Trang Lan Nhã). Từ đường chính vào chùa, du khách như đi vào một khu rừng im vắng, mát mẻ. Chùa không lớn, nhiều công trình dở dang, và công trình chính là ngôi chánh điện thì mới phần móng. Thế nhưng sân chùa vẫn là không gian thơ. Thơ của thầy và thi hữu, được viết trên… bia thơ, đó là những tấm bê tông như giả lát cắt của thân cây cổ thụ, đặt trên bệ xây, phía sau là hàng tre vàng rất đẹp. Ngoài chuyện thơ, thầy có tham vọng tạo một nơi được gọi là “bảo tàng văn hóa” cho mọi người, và trước mắt thầy sưu tập được một số hiện vật quý. Thầy có duyên với các chùa miền Bắc, thầy đã thỉnh về nhiều cổ vật: phù điêu, đồ gốm, gạch… thời Lý Trần, đặc biệt thầy cho trưng bày một hiện vật đồ gỗ mà theo thầy là cọc mà Đức Hưng Đạo đại vương cho đóng trên sông Bạch Đằng trong trận thủy chiến với quân nhà Nguyên. Hiện vật văn hóa bao gồm cả các đồ dùng sinh hoạt xưa: cơi trầu, ống nhổ, bình vôi, con dao bổ cau, chiếc quạt tre mà người mẹ đã dùng thuở sinh thời… Trên điện, thầy tôn trí theo cách các chùa dân gian phía Bắc: ngoài tượng Phật, có rất nhiều tượng… kể cả Ngọc Hoàng thượng đế, Thập điện minh vương, công chúa Liễu Hạnh, thiên lôi,… Thực sự tôi lạ lẫm với điện thờ như thế trong một ngôi chùa tại một địa phương phía Nam. Nhưng tôi đặc biệt chú ý tượng Ngài Địa Tạng, một tượng cổ mà thầy thỉnh về từ chùa nào đó ở Bắc, bị sém mất một phần vai và thân. Ngoài sân, thầy cho trưng bày một số cối xay, bên cạnh đó, tôi rất bất ngờ khi nhìn thấy một tảng đá to trên đó in hai dấu chân; phải chăng đó là dấu chân của một kẻ lãng du dừng chân bên suối một đêm trăng, như là một cơ duyên “Trăng về suối Đó, bờ neo mảnh tình4?
Về phần chúng tôi, dầu thời gian ở Lagi không nhiều, nhưng dấu chân trên cát đã được lưu giữ trong tâm hồn như là kỷ niệm những ngày đầu xuân thấm đượm hương vị của biển, của nắng gió và nhất là đậm đà tình cảm của người thân lâu ngày gặp lại, và của cả những người sơ ngộ.
                                                     Cao Huy Hóa
                                                     Tháng 3/2012

Chú thích:
Theo Quang Nhân, báo điện tử Binhthuantoday.com, 12/10/2011: Lễ hội Dinh Thầy Thím: Quy mô và an ninh hơn.
3, 4 Thơ Đinh Hồi Tưởng


Chủ Nhật, 8 tháng 4, 2012

NGÀY THƠ ẤU ƠI - Nguyễn Đặng Mừng


 Nguyễn Đặng Mừng sinh năm 1953.  Quê quán: Cổ Lũy, Hải Ba, Hải Lăng, Quảng Trị.  Làm thơ viết văn. Sáng tác đăng trên các báo Văn Nghệ, Tia Sáng, Người Đại Biểu Nhân Dân, Sông Hương, Kiến Thức Ngày Nay, Nhịp Cầu Đầu Tư…, các diễn đàn văn học tiếng Việt trong và ngoài nước.



Tác phẩm đã xuất bản:      
 Bóng Chiều Hôm, nhà xuất bản Hội Nhà Văn năm 2009.


      NGÀY THƠ ẤU ƠI
      Tặng bạn bè Nguyễn Hoàng xưa)
                                                    
       Năm 1972,  dân Quảng Trị chạy vào Đà Nẵng, thời đó gọi là tị nạn chiến tranh. Lớp tôi con trai đi lính hầu hết, trong đó có bạn thân là D. Trong thời gian chờ nhập ngũ, chúng tôi thường đi ngang trường Phan Chu Trinh Đà Nẵng để đến trung tâm 1 trình diện hàng tuần.  Thấy bạn bè tiếp tục đi học mà buồn chi lạ. Chúng tôi, những đứa “giã từ áo trắng” thường rủ nhau đi uống cà phê, nghe nhạc giết thời gian. Không đứa nào biết đến bia rượu, thuốc lá. Một lần đi ngược chiều N, tôi đánh bạo băng qua đường tặng N tập nhạc của Cung Tiến có đề tặng câu: “Chờ hoài nhau trong mơ, nhưng có bao giờ thấy nhau lần nữa” *. Tôi linh cảm đây là lần cuối cùng chúng tôi gặp nhau. D đứng lại bên kia đường nhìn sang, mắt buồn vợi. Linh cảm về sau này không vận vào tôi mà lại là D. Chúng tôi có một bạn gái cùng lớp thân nhau, cả ba hơi bị “yêu yêu”. Yêu thời đó là nhìn nhau, chớp mắt và đôi khi thở dài. Cô bé có thiện cảm với  cả tôi và D. Chúng tôi cùng ở trại tạm cư, nơi doanh trại của lính Mỹ để lại. Gọi là tạm cư nhưng đôi chỗ còn cả máy lạnh. Một lần D bị sốt thương hàn, tôi hẹn với cô bạn đi thăm. Tôi đi Honda đến nhà thấy cô ấy đã mặc áo dài và hộp sữa trong tay. Lần đầu chở “người yêu”, hồi hộp lắm. Vậy mà khoảng đường 5 cây số tới nhà D chẳng ai nói câu nào, sau lưng “không nghe tin tức” gì. Chắc ai nhìn thấy là ngộ lắm - Cô ta ngồi cách một khoảng “an toàn” quá mức cần thiết.

Thứ Bảy, 7 tháng 4, 2012

THƠ HẠC THÀNH HOA

      Thi sĩ Hạc Thành Hoa được người yêu thơ biết đến trước đây khá lâu . Từ đầu thập niên 1960 , trên tạp chí Bách Khoa , nhà văn Tam Ích đã trang trọng giới thiệu  ông cùng thi sĩ Nguyễn Tất Nhiên và thi sĩ Nguyễn Bắc Sơn  như là những cây bút tài hoa trẻ  của thi đàn Miền Nam VN.  Hôm nay, La Thụy hân hạnh được chính tác giả gửi thơ văn qua email . Được sự đồng ý của tác giả, xin post lên cho chúng ta cùng thưởng lãm 

 Thi sĩ Hạc Thành Hoa tên thật là: Nguyễn Đường Thai .
Sinh quán tại Xuân Phổ, Thọ Xuân, Thanh Hóa.
Hạc Thành Hoa làm thơ từ năm 1961, đã đăng thơ trên các báo, các tạp chí văn học trước năm 1975 tại Miền Nam Việt Nam. 
Tác phẩm đã xuất bản:
   + Trong nỗi buồn vàng (Nguyễn Đình Vượng, tạp chí Văn Sài Gòn – XB – 1971). + Một mình như cánh lá (Giao điểm Sài Gòn xuất bản – 1973), tái bản (Thư ấn quán Hoa Kỳ xuất bản) 2006

 
  + Phía sau một vầng trăng (NXB Thanh niên – Hà Nội – 1955).
 
  + Khói tóc (NXB Lao động – Hà Nội – 1996).





                        KHÔNG ĐỀ
                   Suốt đêm cùng thức với tàu 
                   Sáng ra núi cũng nhuốm màu tà huy
                   Rồi người với núi chia ly
                   Trời bao la quá lấy gì để che !
                        
                         TIẾC ĐỜI SAO BĂNG
                   Em còn bóng mát đầu sông
                   Nắng đi trải lụa nằm hong tơ chiều
                   Bụi mờ lạc nẻo chân xiêu
                   Hàng cây lượn khói tiêu điều chưa tan
                   Em còn tươi búp ngọc lan
                   Hương bay từ cõi thiên đàng nào xa
                   Kiếp trần trơ một hồn hoa
                   Thương mây trắng những ngày qua biển sầu
                   Em còn vầng nguyệt đêm thâu
                   Từ nao nao ánh hỏa châu cuối trời
                   Chim qua trăng sáng tuyệt vời 
                   Chợt bâng khuâng tiếc thương đời sao băng.  
                                                          Hạc Thành Hoa  
                                                                  (1972)                                                                                        







TRÊN BỜ ĐÁ TÌNH NGƯỜI
Chồi vui chưa trổ cành không
Mù mưa giăng một nhánh sông âm thầm
Tình người bờ đá trăm năm
Sóng tình tôi cuộn trên dòng nước xuôi
Hang sâu chim ngủ phần người
Trơ vơ cột khói thở trời mây đen
Nẻo đời mai có còn em
Nhìn cây rủ bóng hồn im nắng tà
Ngại mây gió đuổi phương xa
Trời xanh sợi khói giăng qua bãi nào
Những ngày gió đợi trên cao
Trong mưa phố vắng bước sầu ngựa ô
Xe nào mai ngọn gió đưa
Chim quên tiếng hót nghe thu xuống cành.
                                          Hạc Thành Hoa


NHỮNG CHIỀU CỦA NGƯỜI CÔ ĐỘC
1.
 Anh còn lại những buổi chiều
Những buổi chiều dáo dác kiếm tìm
Những buổi chiều nghển cổ nhón gót
Những buổi chiều đưa vào quán nước cho thở
Mồi thuốc cho hút, dìu lên xe và đỡ đầu bằng cánh tay êm ái nhất.
Buổi chiều đưa về con đường ký ức ngắn nhất để cùng một lượt
vừa gặp gia đình vừa gặp lại bạn bè.
2.
Anh còn lại những buổi chiều
Những buổi chiều ve vuốt lá xanh xao
Những buổi chiều nghe chuông reo lần cuối
Áo vàng hoàng yến, áo tím hoàng hôn,
lòng tắt nắng trở về.
Ôi những buổi chiều bình minh
Sau một ngày ra công vỡ đất
Sau một ngày tự giam cầm trong vỏ cứng khô
Sau một ngày vác mỏi lu tượng đồng tiếng nói không ngừng
Sau một ngày những  cặp mắt bồ câu mỗi lúc một xa
Những  bước chân người càng đến gần vực sâu lịch sử
Sau một ngày càng lặng câm lủi thủi càng giống người tiền sử bơ vơ.
3.
Anh còn những buổi chiều
Những buổi chiều mang đến từng cơn gió mát hồi sinh mầu nhiệm
Từng khoảnh khắc ngày tàn để thở ra kỳ hết nỗi buồn
Anh ngây ngất trong em mùi thơm mát dịu của Jasmine
Ôi những chiều vàng đơn độc lang thang trên phố không người
Ta thắp lên đôi ngọn nắng nhớ nhung
Trong mắt tròn ngơ ngác.
                                                            HẠC THÀNH HOA