BÂNG KHUÂNG

CÁM ƠN CÁC BẠN ĐÃ GHÉ THĂM, ĐỌC VÀ GHI CẢM NHẬN. CHÚC CÁC BẠN NĂM MỚI GIÁP THÌN 2024 THÂN TÂM LUÔN AN LẠC

Thứ Hai, 4 tháng 6, 2012

BỜ XANH CỦA HUẾ

Ba mươi năm xa Huế, về lại, Huế vẫn còn xanh. Trong lúc nhiều nơi khác thì có nơi đã đổi trắng hay hóa vàng. Đổi trắng, vì quá nhiều tòa nhà vôi gạch mới mọc. Và, vàng đi vì khuynh hướng đô thị hóa “diêm dúa” nửa vời.

“Sân khấu” Ngọ Môn

Con sông xanh mát thường trôi chảy êm đềm là linh hồn của thành phố. Với Huế, sông Hương không phải chỉ là linh hồn mà còn là thể phách tinh anh của thành phố. Núi ấy phải có sông ấy. Sông ấy phải có núi ấy và bầu trời Xuân xanh, Hạ trắng, Thu vàng, Đông tím... mới hội đủ đường nét tạo hình cho một tác phẩm tâm ảnh trong lòng người đi. Phía Nam và phía Bắc, Đà Nẵng và Quảng Trị là hai thành phố đẹp và có thể thay thành phố cũ ra thành phố mới như tái sinh. Đà Nẵng một ngày nào đó có thể đẹp như Hồng Kông. Quảng Trị - Đông Hà có thể đẹp như phố mới. Nhưng Huế thì khó mà có được một sự thay hình đổi dạng tương tự vì Huế đã định hình thành một biểu tượng: Huế tự làm nên Huế mất rồi! Một cặp phạm trù mâu thuẫn và sinh khắc đã làm nên xứ Huế. Ngay điều kiện thiên nhiên và thời tiết cay nghiệt “Tháng tám nắng nám trái bưởi. Giêng hai (lạnh tới mức) cắn tay không ra máu” cũng đã vẽ nên một cảm nhận sinh khắc ngoài tầm thay đổi. Rồi tới cảnh một trú xứ Thần kinh miên mật đến thế mà Huế thơ, Huế mộng; nhưng Huế vẫn “tộng bộng” hai đầu. “Tộng bộng” là một biểu tượng cởi mở thông thoáng, một phong thái tiếp nhận cái mới không cần điều kiện. Nhưng có ai quên được rằng, những người Huế khai phá tiền phong thời chúa Nguyễn Hoàng tiến về Nam là đoàn lữ khách “tới nơi đây đất nước lạ lùng; con chim tê kêu cũng sợ, con cá nớ vẫy vùng cũng run”. Phải chăng vì thế mà cái “đẹp… dễ sợ!”thì chỉ Huế mới có. Huế đã mang số mệnh hy sinh chính mình cho nghĩa lớn của Huyền Trân. Tên gọi cụt ngủn: “Huế, Sịa, Nong, Truồi, Chuồn, Cồn, Hương, Bồ, Dinh, Trò, Độn…” đã không làm cho tình Huế ngắn đi và đất Huế hẹp lại mà cảm xúc mãi dài ra quá tầm một đời người ngắn ngủi. Có một lối sống, lối nghĩ, lối hành xử theo một phong cách riêng gọi là “văn hoá Huế”. Cũng như có một lối gọi tên, phát âm và diễn đạt riêng gọi là “tiếng Huế” hay phương ngữ Huế. Huế toàn ròn không thể thay bằng một Huế khác như người Việt “Huế xa”… mô đó; không thể thay bằng một người Tây hay người Mỹ trở về! Bà mẹ quê lưng còng tóc bạc, lụm khụm hái mớ rau tập tàng luộc cho con ăn không thể thay bằng một hình ảnh “Amy” mô đó… mặc váy đầm, tóc mi-nhon, dắt chó chạy loăng quăng trên đường Thượng Tứ được.
Ba tuần về với Huế vào cuối tháng Ba, khi những cơn lạnh và cơn mưa bất chợt cuối mùa làm Huế vừa già đi, vừa trẻ lại. Tôi đã bắt gặp và cảm nhận từ trong chính mình một chút co ro của tuổi già và một chút tươi mát của tuổi trẻ khi cỡi xe máy Honda chạy loanh quanh khắp các ngã đường quanh Huế và từ làng lên Huế; từ Huế về làng.
Hơn nửa đời sống với Huế, tôi thường tự hào là mình đã thuộc lòng... từng cái ổ gà trên đường qua Đập Đá, đường về An Cựu, đường xuống Bãi Dâu, đường tới  Bao Vinh, đường vô Mang Cá, đường ra An Hòa… hay nhớ rõ màu rêu từng mùa trên những bức tường vôi gạch cổ thành. Thế mà nay về lại, vẫn bị lạc đường hỏi lối loanh quanh. Nghĩa là Huế có mở rộng. Huế thêm nhiều con đường và phố xá lên theo.
Mỗi khi nói đến một thành phố mới, một con đường mới mọc lên thường đồng nghĩa với một khung cảnh thiên nhiên vừa bị biến cải qua bàn tay tái tạo của con người. Tội nhất là những dòng sông rầu đời tuyệt vọng bởi những công trình khai thác không tiếc thương “tình sông nghĩa núi“ của kỹ thuật lạnh lùng. Hình như càng ngày, văn minh nhân loại càng gắn bó tha thiết với những dòng sông. Như châu Mỹ trẻ trung hơn châu Âu nên những con sông không bị biến thành những lạch nước quặn mình làm kiểng cho những công trình xây dựng lâu đài. Những dòng trường giang  như Mississippi, American, Colorado ở Mỹ, Wheaton ở Canada vẫn còn là những bờ xanh lồng bóng nước như hôm nay. Trong khi đó, những con sông nổi tiếng một thời ở châu Âu, vốn đã lên lão từ thời Trung Cổ, như sông Seine ở Paris, sông Thames ở Luân Đôn, sông Brisbane ở Úc,  sông Danube ở Đức… đã bị những cơn lũ đô thị hóa biến thành những dòng kênh quặn mình giữa hai bờ thành lũy bê tông và cao ốc. Hy vọng mãi sau nầy rằng, mai tê cô Thắm con nhà Huế có về làng, dẫu có lỡ để cho “hương đồng cỏ nội bay đi ít nhiều” thì cũng vẫn còn thấp thoáng đâu đó đôi nét mặn mà của cô gái chân quê.
Dẫu có đi khắp năm đồng bảy đội, tuổi già trở về Huế, vẫn thấy Huế đẹp với  những bờ xanh: Bờ sông, bờ suối, bờ ao, bờ hồ, bờ rào, bờ cỏ… Dòng sông Hương xa tít tắp có thể nhìn thấy trong tầm mắt từ đồi Vọng Cảnh, qua chùa Linh Mụ, chạy dọc theo thành phố, rẽ về Vỹ Dạ, qua ngã Ba Sình trước khi xuôi về biển. Hai bên bờ sông vẫn còn xanh mướt. Dòng nước xanh, lác đác lục bình, đôi cụm lau lách hoang dã vẫn còn thấy nhau và những con đò xuôi ngược. Sông An Cựu, Sông Bồ, sông Đào, hồ Ngự… vẫn còn bờ xanh với mùa Xuân và dây leo đong đưa với mùa Hạ. Nếu Huế mất những bờ xanh, làng tôi mất những bờ cây dại dọc sông Bồ thân ái có lẽ tôi sẽ mất đi những hoài niệm một thời nhưng vẫn còn kéo dài và khắng khít của ngày xưa và bây giờ đã trên 60 năm. Và, trong tâm thức của những người trên 60 tuổi như tôi, đã sống nửa đời ở Huế và một nửa ở quê người, khái niệm về quê hương không còn thuần nhất như xưa. Bạn bè sống một đời ở Huế có lẽ khó tình chia sẻ nỗi niềm phân chia trong lòng người có hai bến bờ để tới. Tôi có Quê Mẹ, đó là quê hương nguồn cội đã sinh tôi ra và nuôi tôi khôn lớn một thời. Nhưng tôi cũng có Quê Người, đó là một quê hương khác đã dang tay cưu mang đời tôi và gia đình – giữa lúc cơn bão tâm lý, tri thức và cuộc sống quay cuồng tới đỉnh điểm – mà không cần điều kiện hay sự đổi chác nào. Trong một trạng thái tâm lý “dùng dằng nửa ở nửa về” như thế, những bờ xanh của Huế đã dang tay đón tôi lại. Sự cuốn hút của thiên nhiên đầy tâm cảm là một sáng tạo tuyệt vời của tình yêu cuộc sống. 
Mùa Xuân năm nay, chúng tôi muốn làm một cuộc du lịch “tùy duyên”. Tùy duyên trong du lịch có nghĩa lấy vui làm chính. Còn đi đâu cũng được, miễn sao tìm được thú vị và an lạc trên mỗi bước đi.  Lần nầy “tùy duyên về Huế”, trong lứa tuổi về chiều ngoài vòng cương tỏa chân cao thấp, chúng tôi thường đùa rằng, may thì gặp duyên lành, không may thì gặp duyên chướng. Về Huế tháng Ba. Nắng chưa rát da rát thịt và thời tiết đã qua những tháng mưa Đông… héo úa tâm hồn! Thời điểm nầy Huế có Festival, mùa Phật Đản và vụ gặt Đông Xuân. Festival với những lễ hội rộn ràng đầy màu sắc, Phật Đản với những thuyền hoa rực rỡ trên sông Hương và mùa gặt năm nay nghe bà con nói được mùa với rau cỏ xanh hơn năm ngoái. Nếu Huế không có những bờ xanh của sông núi, ruộng đồng thì lễ hội, thuyền hoa, lúa mùa lấy đâu làm chỗ dựa thiên nhiên cho con người núp bóng.
Chúng tôi cũng có mặt giữa những người Huế gần, Huế xa và khách xem từ bốn phương tám hướng trong buổi mở đầu Huế Festival năm 2012. Có thể nói mà không sợ bị cho là đại ngôn rằng, “sân khấu Ngọ Môn” đêm khai hội là một kiệt tác đẹp hiếm thấy có tầm cỡ toàn cầu, vì đây là dấu tích của một công trình kiến trúc đế vương non hai thế kỷ còn đọng lại trước mắt nhân gian. Tôi chỉ thấy cảnh phế tích đấu trường Colosseum thời đế quốc La Mã ở Ý là nơi có thế gây cảm giác mạnh cho du khách vì lịch sử bi hùng vủa nó. Nhưng Colosseum chưa hề tổ chức… “festival” nên Huế vẫn là nơi xứng đáng cho những lễ hội mang tính văn hóa và truyền thống gây được cảm tình yêu mến cho du khách khó tính vì đã quá từng trãi với bao ngõ ngách địa cầu thời hiện đại.
Lần này tôi về Huế, được gặp lại những người quen, bạn bè ở Huế và từ Pháp, Mỹ, Úc, Canada cùng từ nhiều nơi trong nước “ghé Huế mùa Xuân cho khỏi nóng”. Từ những năm trước, nhiều anh chị em gốc Huế sống xa quê tự động ngồi lại với nhau và góp tay nhau thành một nhóm sinh hoạt từ thiện và văn nghệ, văn hóa Huế gọi là “Huế Xa”. Anh chị em chỉ có một tấm lòng chung là: “Huế Xa mà không xa Huế.”
Chúng tôi ở lại Huế lâu hơn vì được sống với bà con, bạn bè trong màu xanh mùa Xuân tươi mát của Huế. Buổi trưa đi trên Cầu Mới, nhìn về phía cầu Trường Tiền và cầu Bạch Hổ còn ẩn hiện trong màn sương mỏng và nắng mơ phai đầy ẩn dấu như người con gái Huế khi chưa biết “phía bên tê”. Chao ơi là đẹp!

Bờ xanh sông Hương

Nấn ná ở với Huế lâu lắm cũng chỉ tới ba tuần. Tôi thích về làng ra sau vườn hái rau tươi luộc chấm tương ngon như ngày còn mẹ. Lên thành phố, Huế vẫn còn dáng vẻ phố cổ của một thời; có nghĩa là chưa bị biến dạng sau những bóng dáng “đại gia” nửa quê, nửa tỉnh, nửa thị, nửa thành. Huế bây chừ cũng có những nơi cho bạn bè hẹn nhau đầy hương vị như Vỹ Dạ Xưa, Không Gian Xưa, Ven Đồi, Tân Hương Sen, Hoàng Trúc, cà phê Cây Đa Thành Nội, cà phê Thiên Đường.
Về lại Mỹ, nghe tin Huế “nóng như chảo bắp rang” mà tội Huế quá. Bên nầy trời Cali nhớ Huế, chúng tôi bỗng nhớ bạn bè, làng xóm, người thân quen. Chỉ nhớ lại lớp học nhỏ bé của chúng tôi ở trường Hàm Nghi Huế thôi cũng đủ hình ảnh để tính đời dâu biển. Gặp lại thầy xưa, bạn cũ tưởng như mới chiều hôm trước thôi mà hóa ra đã gần một đời đi qua.

Bốn thế hệ trường Hàm Nghi Huế: Thất1 - Tứ 1 (1959-63)
 (Hình chụp trước cổng Di Luân Đường - Quốc Tử Giám;
 trường Hàm Nghi cũ. Tháng 4-2012)

Nhớ nhất là tiếng vọng thời gian “mới đó” thảng thốt mà ngậm ngùi của Huế: Mới đó mà đã 53 năm. Mới đó mà thằng Phúc, thằng Ni, thằng Phụ, thằng Lân, thằng Hòa... trong lớp đã ra đi hơn bốn chục năm rồi.Mới đó mà cả lớp đều đã lên hàng ông nội, ông ngoại. Mới đó mà thằng Viêm đã có chắt! Mới đó mà thế hệ những đứa học trò nhỏ chúng tôi ngày nào nay đã thành những “cụ” già gặp nhau với ít nhiều dáng vẻ lụm khụm và những nụ cười vui buồn vui bay tóc trắng. Và,mới đó mà những nàng dâu Hàm Nghi hương sắc một thời bây chừ hoá ra… đẹp lão. Các cụ chỉ còn biết cố níu lại thời gian bằng tiếng xưng hô “thằng, con, mi, tau…”, của những ngày xưa thân ái cho đã cái miệng (không răng) mà thôi.
Xa Huế, người ta có thể quên những mảnh sống vui buồn, những ngày sướng khổ trong một chặng đời nào đò. Nhưng mấy ai quên được những con đường quê hương đã từng quặn mình giữa bao tuồng ảo hóa của thời gian và cuộc thế trùng trùng dâu biển. Càng về già, tâm hồn lại trở thành chơn chất và thanh thản hơn để còn thương nhớ những bờ xanh của Huế. Mong Huế còn mãi những bờ xanh. Màu xanh sớm mai của Huế chính là nền đậm cho Màu tím Huế buổi chiều. Và màu sắc Huế cũng là nhịp cầu thế hệ nối tuổi già vàng phai và tuổi trẻ xanh mướt mượt mà; nối kẻ ra đi và người ở lại – cho dẫu là Huế Xa mà không xa Huế.

                                                                   Huế - California, tháng Tư đầu mùa Hạ 2012
                                                                                             Trần Kiêm Đoàn

Thứ Bảy, 2 tháng 6, 2012

NGƯỜI CHỒNG BẰNG MÂY ĐAN


    Sau truyện dịch VUSI MAKUSI, NGƯỜI CHỜ XE BUÝT thì NGƯỜI CHỒNG BẰNG MÂY ĐAN   truyện dịch thứ hai của anh Nguyễn Khắc Phước được chính tác giả - nữ văn sĩ người Anh Ursula Wills - Jones đăng trên trang web của bà.
       Ursula Wills - Jones là nữ văn sĩ người Anh, lớn lên ở thành phố Stroud, tỉnh Gloucestershire, xứ Wales. Hiện nay bà sống ở thành phố Bristol. Bà thích các truyện hoang đường, thần thoại, truyện ma và bất cứ chuyện nào có thể làm người lớn sởn tóc gáy. Chuyện của Ursula thu hút chúng ta vì nội dung rất gần gũi với con người - tốt và xấu, thiện và ác, chân và giả - được diễn tả đầy tính hoang đường, thần thoại nhưng phần kết luôn để lại một dư âm, một suy tư ở người đọc. 


     Nguyên tác : The Wicker Husband
     Truyện ngắn của Ursula Wills-Jones
     Nguyễn Khắc Phước chuyển ngữ


                         


Ngày xưa có một cô gái xấu xí, vừa mập vừa lùn, chân đi khập khiễng, hai lông mày dính liền nhau. Cô gái xấu xí sống bằng nghề làm ruột cá. Căn nhà xiêu vẹo của cô nằm ở ngoài làng. Cô không bao giờ than thở chuyện gì.

Trai gái trong làng lần lượt kết hôn với nhau. Họ tung tăng dẫn nhau đến nhà thờ làm lễ cưới. Cô gái xấu xí cũng đến dự nhưng chỉ đứng sau lưng nhà thờ khóc thầm. Phụ nữ trong làng thường ngồi lê đôi mách đủ chuyện về cô gái ấy. Rằng họ không biết cô tiều tiền vào việc gì. Rằng cô ta không bao giờ mua váy mới, không hề sửa nhà và không bao giờ đến quán ăn gì.

Vào thời gian ấy có một ông lão sống bên đầm lầy rất giỏi nghề đan rổ rá. Một hôm ông lão nghe có tiếng gõ cửa, liền mở, và trông thấy cô gái xấu xí đứng ngoài cửa. Trong tay cô có sáu đồng xu bằng vàng.

" Cháu muốn ông đan cho cháu một anh chồng," cô gái nói.

"Một tháng nữa trở lại," lão đáp.

Lão thợ đan hết sức cảm động vì cô gái xấu xí tin lão và giao cho lão một việc quan trọng. Lão quyết định đan một anh chồng đẹp nhất cho cô gái. Anh chồng do ông đan phải có đôi vai rộng, đôi chân dài, cánh tay khỏe, cổ dẻo dai, đôi lông mày đậm và cân đối, mái tóc nâu đen và đôi mắt xanh nâu. Và nhiều thứ khác mà đàn bà thích.

Đúng hẹn, cô gái đến. "Anh ấy nói hôm nay chưa được. Ngày mai anh ấy sẽ đến nhà thờ lúc mười giờ," lão thợ đan nói. Cô gái xấu xí ra về, suốt ngày ngồi gỡ vẩy cá dính trên áo.

Tối hôm đó anh thợ may trong làng nghe tiếng gõ cửa, liền mở, và thấy anh chồng bằng mấy đan đứng bên ngoài.

"Cho tôi mượn một bộ đồ," anh ta nói. "Sáng mai tôi cưới vợ và không thể trần truồng đến nhà thờ".

"Á á á á á!" anh thợ may sợ hãi kêu thét và bỏ chạy ra cửa sau. Chị vợ bước ra, nắm chặt hai bàn tay cho khỏi run, hỏi,"Chuyện gì vậy?". "Cho tôi mượn một bộ đồ," anh chồng đan nói. "Ngày mai tôi cưới vợ và không thể trần truồng đến nhà thờ." Chị vợ ném cho anh ta một bộ đồ và đóng sầm cửa.

Sau đó anh thợ giày trong làng nghe tiếng gõ cửa, liền mở, và trông thấy anh chồng đan đang đứng đó. "Cho tôi mượn một đôi giày," anh chồng đan nói. "Ngày mai tôi cưới vợ và không thể đi chân trần đến nhà thờ." "Ua trời ơi!" anh thợ giày hét lên và bỏ chạy ra cửa sau. Vợ anh thợ giày run rẩy hỏi,"Anh muốn gì?". " Cho tôi mượn một đôi giày," anh chồng mây đan nói. "Ngày mai tôi cưới vợ và không thể đi chân trần đến đám cưới." Chị vợ cho anh ta một đôi giày và đóng sầm cửa lại.

Anh chồng đan đi đến quán làng. "Cho tôi ít đồ uống. Ngày mai tôi cưới vợ và muốn có thứ gì đó để đãi khách," anh chồng đan nói. "Ối làng ơi!" chủ quán hét lên và tất cả khách hàng bỏ chạy. Anh chồng đan vào trong quán và lấy đồ uống.

Sáng hôm sau, khi đến nhà thờ, cô gái xấu xí vô cùng sung sướng vì thấy chồng mình quá đẹp trai và bảnh bao.



Sau đêm tân hôn thứ nhất, anh chồng đan bảo vợ, "Cái giường gảy rồi, kiếm cái đục để anh chữa lại." Như bao anh chồng tốt trên đời, anh chồng đan bắt đầu chữa giường. Chị vợ xấu xí đi làm ruột cá. Chiều cô về đến nhà, anh chồng đan nhìn chị nói, "Anh được tạo ra để sống với em."


Sau đêm trăng mật thứ hai, anh chồng đan nói, "Mái nhà bị dột, kiếm cái thang để anh chữa." Thế là anh chồng tốt trèo lên và bắt đầu chữa mái tranh. Chị vợ xấu xí đi làm ruột cá. Chiều đến, chị về nhà . Anh chồng đan nói, "Nếu không có em, anh đã không bao giờ được thấy ánh sáng mặt trời chiếu lên mặt nước và mây bay trên trời."

Sau đêm trăng mật thứ ba, trước khi đi làm, chị vợ xấu xí nói, "Cần phải làm sạch ống khói để đốt lửa." Chị vừa dứt lời, anh chồng tỏ vẻ sợ hãi. Từ đó, chị vợ xấu xí hiểu rằng không thể bắt một người đàn ông làm bất cứ chuyện gì, cho dù người ấy là một anh chồng tốt.

Vài tuần sau, dân làng bắt đầu chú ý sự thay đổi của chị vợ xấu xí. Dù chân vẫn cà thọt, nhưng mông chị bắt đầu lắc lắc làm họ khó chịu. Dù áo quần vẫn bốc mùi tanh, nhưng chị vừa làm cá vừa hát. Chị diện váy mới và cài hoa trên tóc. Cặp lông mày không còn dính nhau nhờ anh chồng nhổ bằng những ngón tay khỏe và dẻo. Họ để ý thấy nhà chị sơn mới, các cửa sổ sạch bóng, cửa lớn không còn xiêu vẹo. Đừng tưởng rằng những thay đổi này làm dân làng vui, không đâu. Trái lại, các chị vợ bắt đầu ra lệnh các anh chồng sửa chữa cửa nẻo và phàn nàn chồng sao không tự kiếm việc mà làm. Các anh chồng cãi : nếu các chị vợ diện váy mới và cài hoa lên tóc, thử hỏi họ có thích chữa nhà hay không. Mọi người cằn nhằn và nguyền rũa lẫn nhau, nhưng trong thâm tâm, họ đổ tội cho chị vợ xấu xí và anh chồng đan của chị ta.

Chị vợ xấu xí không hề biết người ta đang ganh ghét mình. Chị đang bận làm quen với cuộc sống hôn nhân, và thấy rằng anh chồng mây đan của mình có nhiều bất cập. Anh không ăn, không bao giờ phàn nàn vì cơm tối trể. Anh chỉ uống nước, càng đục càng tốt. Chị hơi buồn vì không có cơ hội nấu nướng và nhìn chồng ăn như bao người vợ khác. Vào những đêm giá lạnh, họ không ngồi cạnh nhau bên bếp lửa vì anh chồng sợ lửa, chỉ thích ngồi trong bóng tối. Khi mùa xuân đến, trời mưa nhiều, anh chồng đan bị ẩm mốc, chị phải dùng bàn chải và giấm để làm sạch mốc. Vào mùa hè, đặc biệt vào tháng sáu nóng nực, các khớp xương của anh trở nên khô cứng, và suốt ngày anh cứ nằm bên mương nước. Chị phải bưng cá ra mương làm, để ngồi với anh cho vui.

Càng ngày, thói tò mò thôi thúc dân làng đến nổi họ không còn chịu đựng được nữa. Nhân có một đám cưới trong làng, cặp vợ chồng ấy được mời đến dự. Đám cưới có dàn nhạc, nhảy múa, thức ăn và rượu. Khi nhạc trổi lên, chị vợ xấu xí và anh chồng đan ra sàn nhảy. Dân làng ngạc nhiên thấy anh chồng đan nhảy quá đẹp. Anh ta nhắc bổng chị vợ mập ú và quay nhiều vòng nhẹ nhàng tựa như một nhấc một chiếc lông chim. Anh chồng mây đan tỏ vẻ hết sức lịch lãm và duyên dáng. Chị vợ xấu xí tưởng mình như đang trên thiên đường.

Cánh phụ nữ che miệng nói thầm với nhau. Vợ anh thợ rèn là người bạo dạn nhất. Chị ta quyết định mời anh chồng đan cùng nhảy. Khi nhạc vừa ngừng, chị ta đi về phía cặp vợ chồng ấy. Chị vợ xấu xí đang ngồi trên đùi anh chồng đan làm anh này phát ra tiếng cót két. Vợ anh thợ rèn định đập vào vai anh chồng đan nhưng hai tay anh này đang ôm choàng lấy chị vợ. "Em là lý do duy nhất để anh sống và thở", anh chồng đan nói. Vợ anh thợ rèn nghe được câu ấy liền bỏ đi, chẳng nói chẳng rằng.

Hôm sau, không khí giận dỗi căng thẳng lan ra khắp làng.
" Ông chỉ có hai chân biết đi mà thôi," chị vợ anh thợ giày mắng chồng.
" Ông không bao giờ nói với tôi điều gì hay ho," chị vợ anh thợ rèn hét vào mặt chồng.
" Ông chỉ biết mỗi một việc là nhìn xoáy vào đám đàn bà con gái mà thôi," vợ anh chủ lò bánh nhiếc chồng. Mặc dù chính chị ta cũng không làm gì khác hơn là nhìn anh chồng đan chết mê chết mệt suốt buổi đám cưới.

Sau đám cưới, cánh đàn ông tụ tập tại quán rượu.
"Bậy quá, bậy quá."
"Thằng chả làm mất mặt bọn ta."
"Bày đặt sơn cửa."
"Sửa mái tranh nữa chứ."
"Thì thầm với vợ những câu lãng xẹt."
"Bày đặt khiêu vũ nữa chứ."
"Hắn có phải là người đâu. Đồ tởm lợm."
"Hắn không ăn."
"Không cằn nhằn."
"Đánh rắm cũng không," anh thợ may buồn bực nói.
Đám đàn ông lắc đầu và đều đồng ý rằng chuyện này không thể tiếp diễn được nữa.

Trong khi đó, cánh đàn bàn tập trung trong nhà bếp.
" Có gì đó bậy bạ trong chuyện này," họ thì thầm với nhau.
"Con vợ làm sao mà xứng với thằng chồng ấy."
"Chắc con này bỏ bùa nó thôi."
"Rồi nó sẽ bỏ bùa chồng của bọn ta . Coi chừng đấy," vợ anh chủ lò bánh nói.
"Phải làm cho nó hết vênh váo."
"Nó mà hơn bạn ta, hả?"
"Còn bày đặt cài hoa lên tóc nữa chứ."
"Thấy nó nhảy mà phát ghét."
Và họ dứt khoát chuyện này không thể tiếp diễn được nữa.


Một hôm, sau khi kiểm tra mấy cái bẩy cá, anh chồng đan mây đang đi về nhà thì tay chủ lò bánh xuất hiện và đi theo.
"Tối hôm đó anh tạo ấn tượng khá đấy."
"Thế hả?" anh chồng đan nói.
"Bọn phụ nữ bị kích động . Anh có bao giờ nghĩ...e hèm..."
"Cái gì?" anh chồng đan bối rối hỏi.
"Đàn ông như anh...có nhiều cơ hội lắm đấy". Anh ta nghiêng người về phía anh chồng đan khiến anh này phải lùi lại, né tránh. Hơi thở tay chủ lò bánh bốc mùi bột chua khiến anh chồng đan khó chịu.
"Vợ thằng hàng thịt rất hấp dẫn. Tôi biết chắc thằng chả không có ở nhà. Lên thăm thằng em ở thành phố rồi. Tới đó thử xem."
"Không được đâu," anh chồng đan nói. "Vợ tôi đang chờ tôi ở nhà". Anh chồng đan quay người và bước nhanh. Tay chủ lò bánh bực tức quay về nhà.

Anh chồng đan có tính cả tin, lại chẳng để bụng chuyện gì nên vợ anh ta không hề hay biết có chuyện rắc rối đang nhen nhúm. Chừng một tuần sau, khi chị vợ xấu xí đang hái quả dâu trên hàng rào thì vợ anh thợ may rón rén bước tới.
"Này em yêu quý ơi!" vợ anh thợ may vừa kêu vừa vẫy tay.
"Chuyện gì thế?" chị vợ xấu xí nói.
Vợ anh thợ may giả đò lau nước mắt, nhìn trước nhìn sau, rồi thì thầm, "Em yêu quý ơi, chị đến đây để báo cho em biết chuyện này: chồng em đang đi lại với mấy người đàn bà, em biết chưa?"
"Đàn bà nào?" chị vợ xấu xí hỏi.
Vợ anh thợ may khoát tay. Hình như chị ta không có ý định nói thế.
"Em yêu quý ơi! Đừng tin bọn đàn ông. Họ đều một giuộc như nhau. Chẳng tốt lành gì đâu - đàn ông như chồng em, đàn bà như em- thật đấy."
Chị vợ xấu xí quá tức giận, lấy cái rổ đập chị vợ anh thợ may và chạy đi. Chị vợ xấu xí về nhà, mặc dù biết nhiều chuyện chẳng lành hơn chồng mình và nghĩ mãi về chuyện ấy nhưng vì sợ phật ý chồng nên chị làm thinh.
Vợ anh thợ may giận dữ quay về nhà, trên mặt có nhiều vết xước. Tối hôm đó, tất cả những cặp vợ chồng trong làng nhất trí phải có hành động quyết liệt.

Vài ngày sau, lão thợ đan nghe tiếng gõ cửa, liền mở, và thấy nhiều dân làng đứng ngoài. Ngay lúc đó, vợ anh thợ may bắt đầu khóc nức nở.
"Chuyện gì thế?" lão thợ đan hỏi.
"Chị ấy không có con," vợ anh chủ lò bánh sụt sùi.
"Trai không, gái cũng không," tay thợ may buồn bã nói.
"Chẳng ai chăm sóc họ lúc tuổi xế chiều," tay lò mổ thêm.
"Họ buồn ghê lắm," chủ lò bánh tiếp.
"Thế nên chúng tôi đến yêu cầu..."
"...nhờ lão đan cho chúng tôi một đứa bé. Bằng dây mây."
Và họ cầm một túi vàng đưa ra.
"Được," lão thợ đan nói. "Một tháng sau đến đây."


Vào một ngày thu trời xám xịt, chị vợ xấu xí đang ngồi bên bếp lửa thì nghe tiếng gõ. Anh chồng đan mở cửa và thấy dân làng đứng bên ngoài. Vợ anh thợ may ẵm một cái bọc phát ra tiếng khóc oe oe.
"Cái gì thế?"
"Cái này là do mày tất," tay hàng thịt chỉ vào anh chồng đan và rít lên.
"Đồ bẩn thỉu, người không ra người," tay chủ quán khịt mũi.
Tay thợ may kéo phăng cái mền và chị vợ xấu xí trông tấy một đứa bé đan bằng dây mây. Mắt, mũi giống chồng chị như đúc. Chị khóc rống lên.
" Trời ơi! Hãy nói cái này không phải của anh đi!"
Nhưng anh chồng của chị chẳng nói chẳng rằng, cứ nhìn chằm chặp vào đứa bé. Chưa bao giờ anh trông thấy đồng loại của mình và cảm thấy hết sức xúc động. Trông thấy vẻ mặt của anh, chị vợ nằm lăn trên nền nhà, rên rỉ.
"Đồ thối tha , dơ bẩn. Đồ súc vật," tay thợ may rít lên. Anh ta chụp đứa bé liệng vào trong bếp lửa. Ngay lập tức, anh chồng đan la lên, nhảy ra. Chị vợ xấu xí hét lên, ném cây đèn dầu vào anh chồng đan. Bầu thủy tinh vở và dầu văng tung tóe. Lửa bắt đầu liếm vào ngực anh chồng đan, cháy lên cổ, lên mặt. Anh ta cố dập lửa nhưng ngón tay dính dầu bật cháy. Anh ta rú lên, chạy ra và lao xuống sông.
"Mọi sự diễn ra tốt đẹp," tay hàng thịt thỏa mãn nói.
Dân làng chẳng ai để mắt tới chị vợ xấu xí. Họ về nhà ăn cơm tối. Trên đường về, vợ tay thợ may ném đứa bé đan xuống rãnh nước, lấy chân đạp vào mặt nó và nói, "Đồ ghê tởm."

Hôm sau, chị vợ xấu xí lang thang trên đường, gặp ai chị cũng hỏi, "Chồng tôi đâu rồi?". Thấy mắt chị có vẻ dữ tợn, người ta bỏ đi. Chiều tối, khi đang lang thang không biết nơi đâu, chị nghe có tiếng gì kêu trong rãnh nước. Cúi xuống, chị trông thấy đứa bé mây đan. Nó kêu gào và cố vùng vẫy. Mắt và mũi của nó làm chị nhớ chồng. Chị ôm nó vào lòng và bồng về nhà.

Bấy giờ, lão thợ đan chẳng hay biết chuyện gì đã xảy ra. Một hôm lão chợt nảy ý tưởng nên đi xem hai tạo vật của lão tiến bộ ra sao. Lão vào làng, đến gõ cửa nhà tay thợ may, gặp chị vợ, lão hỏi, "Đứa bé ra sao rồi?". "Ối dào, nó chết rồi," chị vợ trả lời và đóng sầm cửa lại.
Lão thợ đan tiếp tục đi đến nhà của chị vợ xấu xí. Nhà đóng cửa, vườn tược nhếch nhác, cửa ngõ bụi bẩn. Lão thợ đan gỏ cửa, đợi thật lâu vẫn không ai trả lời.
Lão thợ đan thất vọng quay về nhà. Khi đang đi trong bóng tối chạng vạng gần đầm lầy, lão nghe có tiếng gì trong bụi cây bấc. Lúc đầu lão sợ, lấy khăn trùm mặt. Nhưng tiếng kêu hình như đi theo lão, lâu lâu lại rên rỉ. "Ai đó?" lão kêu lên. Một bóng người tã tơi đang lê bước khập khiễng trên đường, trông rất thương tâm. Lão kinh hoàng nhận ra đó là cái phần còn lại của anh chồng mây đan: tay bị lửa thiêu, mặt bị mất. Ngực bị lửa đốt tạo thành những lỗ đen, bắt đầu mục rã. Lão thợ đan khóc rống lên, "Trời ơi, ai làm gì con tôi thế này?" Anh chồng đan không nói được: lưỡi anh ta đã bị mất. Lão mang anh ta về nhà mình. Sáng hôm sau, lão bắt đầu sửa chữa. Càng chữa, lão càng tức giận, "Tao làm ra mầy, lại để cho mầy hư hỏng thế này," lão nói. "Tao sẽ không để cho mầy tới đó nữa."

Anh chồng đan sau một thời gian được chữa lại như mới mặc dù mùi khét vẫn còn. Nhưng vài ngày sau, mốc đen do ẩm bắt đầu mọc. Lão thợ đan rút những sợi mục và thay vào những sợi mới. Nhưng hình như vô ích: anh chồng đan bị mục từ trong ra ngoài. Rốt cục, lão thợ đan đành bó tay.

Không kể đêm hôm khuya khoắt, lão khoác áo và đi băng qua làng, đến nhà chị vợ xấu xí. Trong vườn đầy rác rưởi, chị vợ đang đứng, tay bồng đứa bé. Chị đang hát một điệu ru buồn da diết. Nhìn kỹ, lão thấy nó chính là đứa bé lão đã tạo ra.

Lão thấy cơn giận của mình dịu lại. Bước ra khỏi bóng tối, lão nói, "Chị giữ đứa bé làm gì khi mà chị đã đuổi chồng ra khỏi nhà." Nghe có người hỏi, chị vợ bật khóc òa lên, "Nó là tất cả những gì mà chồng cháu để lại," chị nói sau một hồi khóc lóc. "Dù đây là bằng chứng lừa dối của anh ấy nhưng cháu không nỡ nào để nó chết trong rãnh nước." "Chị ngốc quá," lão nói. "Chính ta đã tạo ra đứa bé nầy, chồng chị chẳng có tội gì."

Vừa nghe xong lời ông lão, chị vợ xấu xí hét lên và chạy ra sông. Ông lão chụp tay chị, ngăn lại, "Khoan đã. Đi theo ta, ta sẽ cho xem cái này."

Chị vợ xấu xí bước theo sau lão thợ đan, vòng qua đầm lầy. Khi trời sáng, chị thấy rõ mặt ông lão có nhiều nét giống đứa bé. Như những người sáng tạo khác, lão đã truyền hình dáng và tính cách của mình vào trong tác phẩm.

Khi họ đến chỗ ở của ông lão, chị vợ xấu xí mở cửa và thấy chồng mình đang ngồi trong bóng tối.
"Lẽ nào chồng của em đây," chị nói. "Anh đã chết rồi. Chính em đã giết anh rồi mà!"
"Anh đã được tạo ra để dành cho em", anh chồng đan nói. "Nhưng em lại vứt anh đi."
Chị vợ khóc òa lên và quỳ xuống, gục đầu vào chân chồng.

Vài ngày sau, dân làng ngạc nhiên thấy lão thợ đan đứng trước nhà thờ.
"Lão có chuyện muốn nói với các người," lão nói. "Ta sắp nghỉ hưu. Nhưng trước khi nghỉ hưu, ta muốn làm một kiệt tác - một cô gái bằng mây đan. Nếu muốn, các người sẽ được phép sở hữu cô ta. Nhưng các người phải cho lão quà để lão nghỉ hưu. Bất cứ ai mang quà có giá trị nhất sẽ được phép sở hữu cô ta." Nói xong, lão quay lưng và đi về đầm lầy.
Khi lão vừa đi xong, dân làng bắt đầu xầm xì.
"Thằng chồng mây đan cao ráo và phong nhã quá đi chứ!"
"Nó làm việc siêng năng quá chứ lỵ?"
"Anh ta không đẹp trai nhưng biết chiều vợ đấy chứ?"

Hôm sau, dân làng tuyệt đối không ai nói mình thích cô gái đan, nhưng bắt đầu có kế hoạch. Đàn ông hỏi nhau về giá bò. Đàn bà lén mở hộp đựng nữ trang.
"Thằng chồng đan làm việc như nô lệ, chẳng bao giờ đòi ăn," vợ anh thợ giày nói với chồng. "Mua cho tôi con gái đan ấy để tôi bắt nó làm đầy tớ. Tôi sẽ làm bà hoàng, suốt ngày chẳng đụng đến móng tay."
"Thằng chồng đan không bao giờ cãi cọ với ai, chẳng khi nào to tiếng," tay chủ quán trọ nói với vợ. "Không như bà, giống hàng tôm hàng cá."
"Thằng chồng đan chẳng mỏi mệt, nhức đầu," anh hàng thịt nói với anh chủ lò bánh. "Hãy tưởng tượng xem..."
"Này em, cho chị mượn ít tiền," vợ anh thợ giày nói. "Chị cần mua đồ lót mới."
"Không được đâu," vợ anh thợ rèn nói. "Em đã mua thuốc hết rồi. Con em đau nặng lắm."
"Trả món tiền mầy còn nợ tao ngay đi," anh hàng thịt nói với anh thợ may đang thuê nhà mình.
"Lâu nay có may vá gì được đâu," anh thợ may nhỏ nhẹ. " Em sẽ trả bác nay mai thôi."
Anh hàng thịt lên phố thuê luật sư đuổi anh thợ may khỏi nhà mình. Anh thợ may dẫn vợ đến thuê nhà anh thợ giày.
"Ông định dùng cái nhà trống vào việc gì?" vợ anh hàng thịt hỏi chồng.
"Chẳng làm gì cả," anh hàng thịt nói, bụng nghĩ đến chỗ ở cho cô vợ bé.
Vợ anh hàng thịt đánh nhau với vợ anh thơ may ngoài chợ, về nhà mặt sưng bầm. Trong quán, không ai nói gì, chỉ len lén nhìn nhau.
Tay luật sư vẫn chưa về làng. Người ta đồn vợ anh thợ may đang muốn ly hôn. Vợ anh chủ quán trọ kêu cảnh sát bắt chồng khi thấy cầu thang có bôi mỡ.
Tóm lại, lúa không ai gặt, bò không ai vắt sữa, bếp lò không ai dọn. Cả làng đang bị ám.

Thế rồi một ngày lão thợ đan đến, ngồi bên hông nhà thờ. Dân làng mang quà tới. Đầu tiên anh thợ may mang một cái áo bành tô đắt giá. Kế đến, anh thợ xay xát mang một chục bao lúa. Anh chủ lò bánh mang một cái bánh cực kỳ ngon. Anh thợ mộc mang một bộ bàn ghế. Anh xà ích mang một con ngựa to khỏe. Vợ anh thợ rèn khệ nệ bưng một miếng pho-mát to cỡ bánh xe. Em họ chị ta, vợ anh thợ may, mang đến một túi vàng.
"Vàng ở đâu ra vậy?" anh thợ may hỏi vợ.
"Mắc mớ chi ông," chị vợ đốp chát.
Vợ chủ quán trọ không có mặt. Chị ta bị trượt chân khi lên cầu thang.
Người cuối cùng là tay hàng thịt. Anh ta bỏ xa những người khác: hai con bò đực, bốn con bò cái và chục con cừu.
Lão thợ đan nhìn quanh rồi nói, "Được rồi. Phần thưởng thuộc về ... anh hàng thịt. Lão mang những thứ nầy về và sẽ mang cô gái đan trở lại."
Tay hàng thịt quá sung sướng đến rớt nước dãi.
"Tôi lấy lại lúa," anh xay xát nói.
‘Không không," lão thợ đan nói. "Đây có phải là mua bán gì đâu". Lão chất hết hàng lên ngựa.

Đáng lẽ ra dân làng phải túm nhau mà đánh lộn nhưng vì họ quá tha thiết muốn trông thấy cô gái đan nên chỉ đứng đó và chờ.

Khi lão thợ đan trở lại thì trời đã nhá nhem tối. Cô gái đan ngồi trên lưng ngựa, mặc áo choàng, đầu đội khăn voan như một cô dâu. Khi cô đi ngang, dân làng ngửi thấy mùi hương ngào ngạt.
Anh hàng thịt đứng trước ngôi nhà trước đây cho anh thợ may thuê. Để chuẩn bị, anh đã nhốt vợ vào trong kho than.
Lão thợ may đưa tay, giúp cô gái đan bước xuống. Anh hàng thịt trố mắt nhìn cô. Cô gái đan thấp và chân đi vòng kiềng, mặt đen và thô nhám. Nhưng tệ hơn, từ đầu đến chân phủ đầy gai.
"Cái quái gì thế này?" tay hàng thịt rít lên.
"À," lão thợ đan nói. "Anh chồng đan được làm bằng cây mây. Mây là cây cao, thân mềm mại, chẳng làm ai đau đớn. Nhưng ta thấy các người không thích, nên ta làm cô gái này bằng cây mận gai. Mận gai thì cứng và đầy gai. Lửa hay nước không làm cô ta chết."

Dân làng có lẽ đã đè lão thợ đan mà đánh nếu cô gái đan không bước ra. Cô ta chụp tay hàng thịt và hôn vào môi anh ta. Tay hàng thịt rú lên. Khi dứt ra được, môi anh ta bị cào xước, máu chảy xuống cằm. Đúng lúc ấy, người ta nghe một tiếng rầm: vợ tay hàng thịt đã thoát khỏi kho than và đang chạy tới. Trông thấy cô gái đan đang hôn chồng mình, chị ta thét lên và đè cô gái đan xuống. Hai người xoắn với nhau, lăn xuống rãnh nước, vừa hú vừa cào.
Ngay lúc ấy, tay luật sư xuất hiện. "Các người chưa làm biên bản sao? Phải kiểm tra mọi dấu vết. Quan trọng lắm đấy," tay luật sư nói.
Dân làng lấy dao của tay hàng thịt, kéo của tay thợ may, xảy rơm của mình, rượt đuổi tay luật sư. Chạy đến khi mệt đứt hơi, họ ngừng.
"Lão thợ đan gian trá," tay lò bánh nói. "Lão lừa bọn ta rồi." Thế là họ quay sang đường khác, nhắm hướng đầm lầy.
Trời đã tối và họ vấp ngã, lỏm bỏm trong bùn, lạc đường và gần bị sa lầy.
Khi đến được chỗ ở của lão thợ đan, họ đốt lửa lên cho sáng. Nhưng lão thợ đan, anh chồng bằng mây đan, chị vợ xấu xí, đứa bé và tất cả hàng hóa của dân làng, hết thảy đều biến mất.

                                                                                        Ursula Wills-Jones
                                                                                     Nguyễn  Khắc Phước chuyển ngữ.


Thứ Bảy, 26 tháng 5, 2012

NGÔI TRƯỜNG CŨ, ƠI 10A3 - Thơ La Thụy


       


       NGÔI TRƯỜNG CŨ - ƠI 10A3

       Gần bốn mươi năm rồi, phải chăng thế
       Ơi, mái tôn vách ván sân trường xưa
       Ơi bè bạn ! Thẹn thò ngày mới lớn
       Ghế cầm tay thắm dệt đóa hoa mơ

       Nguyễn Hoàng (*) ! Thôi vời vợi ngôi trường cũ
       Ngăn phên gót vẫn thích hơn tường vữa
       Tiếng học ồn ta vẫn thấy véo von
       Còn chăng hương má cốm đến thơm giòn ?

       Mắt mở lớn lũ học trò thuở ấy
       Những Cường, Oanh, Bình, Phú… lộng hồn trai
       Chân chập chững vẫn vào đời mạnh bước
       Ươm mơ hồng luôn dự phóng tương lai

       (Còn măng sữa nhưng tưởng rằng vượt lớn
       Bàn sự đời “từng trải” đến ngây ngô !
       Thơ vụng dại cho rằng tài xuất chúng
       Xô tượng thần đạp ngã những ngai thờ

       “Cánh sen vàng”, “cành trúc” thơ ngày cũ
       Đám trai non háo hức cố thi tài
       Gieo vần họa, tôn xưng làm tam tuyệt
       Ơi cuồng kiêu ! Thơ dại hơn loài nai )

       Thương thắm thiết lớp 10 xưa cũ đó
       Tảng đá buồn rêu phủ tên A3 ?
       Thương Non Nước hang sâu cùng dốc núi
       Mây bay về ai nhắn kể chuyện ngày qua

       (Lan và Thắm còn than chăng chân mỏi
       Hường Trúc ơi, vẫn ngọt nước dừa tươi
       Trên đỉnh núi nhấm hoài vắt xôi dẻo
       Thoáng mắt nhìn Thân có thấy bồi hồi )

       Và Phi Hải cát vàng chao sóng vỗ
       Ta ngày xưa nồng ấm đẹp hồn mơ
       Chưa yêu thương sao lòng hoài rộn rã
       Ơi Thuận Thân ! Ơi ngày tháng xa đưa !

       Trường học cũ giờ tan thành cát trắng
       Thầy cô xưa mù biệt với ngàn khơi
       Thời “tản cư” chập chờn vương hư ảnh
       Khói sương mờ hay kỷ niệm lên hơi

       Thoáng kỷ niệm về bơi trong đáy mắt
       Ta trầm ngâm hoài tưởng cả trời xưa
       Nghe vang vọng dư âm bao tình mất
       Thoảng bay cao diệu vợi những giai thừa

                                                      LA THỤY

    (*) Mùa hè đỏ lửa 1972, theo chân người tản cư Quảng Trị, trường Nguyễn Hoàng dời vào trại 5 Non Nước, Hòa Long, Hòa Vang, Đà Nẵng (gần Ngũ Hành Sơn – tức núi Non Nước). Cơ sở vật chất của trường thiếu thốn trăm bề, học sinh phải xách ghế đi học

Thứ Hai, 14 tháng 5, 2012

THƠ ĐƯỜNG LUẬT GIEO VẦN TRẮC - La Thụy cùng thi hữu


  

      
      THƠ ĐƯỜNG LUẬT GIEO VẦN TRẮC

      Trong thơ Việt, riêng đối với thể thơ cổ phong, thể thơ Đường luật, hầu như các tác giả đều gieo vần bằng. Rất hiếm ai gieo vần trắc, vì đọc lên nghe trúc trắc không êm tai - Chẳng hạn bài thơ cổ phong ngũ ngôn bát cú gieo vần trắc "ĐÊM MÙA HẠ" của Nguyễn Khuyến

          ĐÊM MÙA HẠ

          Tháng tư đầu mùa hạ
          Tiết trời thật oi ả
          Tiếng dế kêu thiết tha
          Đàn muỗi bay tơi tả
          Nỗi ấy nói cùng ai
          Cảnh này buồn cả dạ
          Biếng nhắp năm canh chầy
          Gà đà sớm giục giã
                      Nguyễn Khuyến

   Mình thử làm vài bài thơ Đường luật gieo vần trắc và họa thơ cùng bạn bè. Mời cùng đọc cho vui nhé!
            
       MỪNG TUỔI BẢY MƯƠI
       (Mừng thọ bác Kha 70 xuân)

       Con giáp xoay vòng giờ đến Sửu
       Thất tuần đáo tuế mừng thi hữu
       Đêm xuân ngâm ngợi Hán Đường thư
       Ngày hạ khề khà Mai Quế tửu
       Cảm hứng chứa chan ông đón tân
       Ý tình dào dạt bà đưa cựu
       Tương giao sơ ngộ họa đôi dòng
       Chúc bác Ngọc Kha thọ bách cửu
                                         La Thụy
                                (Tháng 7/ Kỷ Sửu)

       CẢNH XUÂN

       Nắng hồng lan tỏa xuyên nhành lá
       Thoang thoảng làn hương dìu dịu lạ
       Ong bướm chập chờn giỡn gió mây
       Rong rêu lúng liếng đùa tôm cá
       Mừng Xuân rộn tiếng chúc râm ran
       Đón Tết vang câu cười giã lã
       Ngơ ngẩn kìa ai ươm mộng hồng
       Bên chiều ngắm cảnh lòng thư thả
                                              La Thụy