BÂNG KHUÂNG

CÁM ƠN CÁC BẠN ĐÃ GHÉ THĂM, ĐỌC VÀ GHI CẢM NHẬN. CHÚC CÁC BẠN NĂM MỚI GIÁP THÌN 2024 THÂN TÂM LUÔN AN LẠC
Hiển thị các bài đăng có nhãn SƯU KHẢO. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn SƯU KHẢO. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Sáu, 19 tháng 7, 2019

CHUYỆN TÌNH VÙNG U MINH NAM BỘ QUÊ TÔI (PHẦN II) - Nguyên Lạc


  
                                         Hoa sứ trắng

Phần II

CHUYỆN TÌNH
SƠ LƯỢC CHUYỆN TÌNH VÙNG U MINH

Đây là bài thơ kể lại chuyện tình vùng U Minh nam bộ quê tôi, được gợi hứng từ truyện "Hương Rừng" nổi tiếng của nhà văn Sơn Nam. Xin tóm tắt chuyện như sau:
Di dân từ ngũ Quảng vào lập nghiệp vùng rừng U Minh. Ông Hương giáo có một người con gái duy nhất, xinh đẹp mà ông rất thương yêu tên Hoàng Mai. Khi Hoàng Mai đến tuổi trăng tròn, hỡi ơi ông phát hiện nàng bị bệnh nan y: Cùi  (bệnh hủi hay bệnh Hansen)
Tìm trong gia phả thấy có ghi: - Luyện thuốc bằng "ngọc" ong mật có thể chữa bệnh cùi. Ông bèn thuê một chàng trai trẻ, làm nghề bắt ong mật đi tìm "ngọc" để ông luyện thuốc cho con gái yêu. Ông Hương giáo mời chàng trai ở luôn trong nhà cho có bạn. Ngày đêm, ông chong hàng chục ngọn nến bạch lạp chung quanh mớ “ngọc” để luyện, hy vọng rằng khi đúng một ngàn ngày, nó sẽ trị được bịnh nan y của Hoàng Mai.
Một hôm tại nhà ông Hương giáo, chàng trai gặp nàng, người con gái mỏng mảnh, liêu trai đứng tựa cây sứ cùi, mặt cạnh bên những đóa hoa trẳng nhìn chàng với ánh mắt đầy ân tình. Lòng đầy yêu thương, chàng đến đứng cạnh Hoàng Mai xin được cầm tay nàng.

Thứ Ba, 16 tháng 7, 2019

CHUYỆN TÌNH VÙNG U MINH NAM BỘ QUÊ TÔI (I) - Nguyên Lạc


                                                (U Minh-Diệc)

CHUYỆN TÌNH VÙNG U MINH  NAM BỘ QUÊ TÔI (I)

Phần I:  
VÙNG U MINH

BÀI THƠ, NHẠC VỀ RỪNG U MINH

Trước khi vào bài, mời các bạn đọc bài thơ và nghe bài nhạc phổ bài thơ này. Bài thơ liên quan đến vùng U Minh. Bài nhạc phổ thơ này theo cảm xúc riêng tôi rất hay, nhưng không biết sao nó không được phổ biến bằng các bài nhạc phổ thơ cùng thời, cùng nhạc sĩ Phạm Duy như bài: "Thà Như Giọt Mưa", "Kỷ Vật Cho Em" "Chuyện Tình Buồn"... Chắc vì nó không đề cập đến thành phố, trường đại học, quán nhạc đèn vàng... mà chỉ nói về nơi chốn chân chất, quê mùa?

Rừng U Minh Ta Không Thấy Em
          [Thơ Nguyễn Tiến Cung]

Ta không thấy em từ bấy lâu nay
Mùa mưa làm rừng đước dâng đầy
Trên cao gió hát mây như tóc
Tràm đứng như em một dáng gầy

Ta không thấy em một lần đi
Nước phèn vàng nhuộm quần trây-di *
Đạn nổ lùng bùng trong nòng ướt
Tình đã xa rồi thôi nhớ chi

Mỗi con lạch là mỗi xót xa
Mỗi giòng sông là mỗi tuổi già
Thành phố đâu đây hình mất dạng
Cuộc chiến già nua theo tiếng ca…
........
* Treillis: loại quần bằng vải khaki của quân đội, thường có hoa văn màu xanh thẫm để ngụy trang

Mời nghe nhạc:
Rừng U Minh Ta Không Thấy Em - nhạc Phạm Duy - Khánh Ly
https://youtu.be/Cd7H_ieM85k

Thứ Năm, 11 tháng 7, 2019

NGƯỜI VIỆT NAM ĐẦU TIÊN ĐẶT CHÂN ĐẾN CHÂU MỸ - Nguyễn Hiến Lê

Nguồn:
https://nguoiphuongnam52.blogspot.com/2017/09/nguoi-viet-nam-au-tien-at-chan-en-chau.html

             
                          Học giả Nguyễn Hiến Lê
                                    (1912–1984)

Từ một người đi tìm vàng ở California, ông đã trở thành ký giả người Việt đầu tiên trên đất Mỹ. Ông là Trần Trọng Khiêm, người làng Xuân Lũng, phủ Lâm Thao, Phú Thọ.
                            
NGƯỜI VIỆT NAM ĐẦU TIÊN ĐẶT CHÂN ĐẾN CHÂU MỸ                                                                                    Nguyễn Hiến Lê

Trần Trọng Khiêm sinh năm Tân Tỵ (1821), tức năm Minh Mạng thứ 2, là con của một gia đình thế gia vọng tộc ở phủ Lâm Thao, tỉnh Phú Thọ nhưng trong người lúc nào cũng sẵn máu phiêu lưu. Năm ông 21 tuổi, vợ ông bị một viên chánh tổng âm mưu làm nhục rồi giết hại. Sau khi giết tên chánh tổng báo thù cho vợ, ông xuống Phố Hiến (Hưng Yên), xin làm việc trong một tàu buôn ngoại quốc và bắt đầu bôn ba khắp năm châu bốn bể.

Thứ Tư, 3 tháng 7, 2019

VỤ ÁN NAM PHONG TẠP CHÍ - Thụy Khuê




    VỤ ÁN NAM PHONG TẠP CHÍ (*)
                                  Thụy Khuê

Tuy không chính thức có vụ án Nam Phong, nhưng sau khi Phạm Quỳnh và Nguyễn Bá Trác, chủ nhiệm và chủ bút Nam Phong bị xử tử năm 1945; tại miền Bắc, toàn bộ trước tác trên Nam Phong, được coi là tờ báo của thực dân do "trùm mật thám" Louis Marty điều khiển, bị khai trừ khỏi nền giáo dục và văn học.

Thứ Năm, 20 tháng 6, 2019

CHỮ BẬU TRONG HÒ, CA DAO VÀ LỤC BÁT - Nguyên Lạc


        
                               Nhà thơ Nguyên Lạc  
       

         CHỮ BẬU TRONG HÒ, CA DAO VÀ LỤC BÁT
                                                                         Nguyên Lạc


Bài viết này là bài thứ 2 trong loạt bài giới thiệu quê hương nam bộ bình dị và thân thương của chúng tôi.
Đây là bài 1: Nguyên Lạc: VỀ CHỮ “BẬU”

Trong cuộc Nam tiến, nhiều dòng người từ các nơi đã đến vùng đất mới này sinh cơ lập nghiệp, nhất là những đợt di dân từ đất ngũ Quảng (Quảng Bình, Quảng Trị, Quảng Tín, Quảng Nam và Quảng Ngãi) vào cuối thế kỷ 16 và đầu thế kỷ 17.  Trên bước đường chinh phục hoang vu, từ những chiếc ghe bầu, ghe chài, tam bản, xuồng ba lá… hành trang mang theo của những di dân này có cả những câu ca dao để làm chỗ dựa tinh thần trên bước đường xa xứ. Lênh đênh sông nước, những hành trang tinh thần này được họ- các tiền nhân -  cách tân, sáng tác thêm cho phù hợp với hoàn cảnh mới của mình, rồi phổ biến rộng rãi. Chữ "bậu" đặc biệt của nam bộ xuẩt hiện trong ca dao. Những câu hò, điệu lý… từ những ca dao này được hình thành. Tôi xin được tiếp tục giới thiệu đến các bạn sơ lược về hò và một số bài lục bát ca dao có chữ "bậu" thân thương này.

Chủ Nhật, 19 tháng 5, 2019

BÍ MẬT CHỮ “KÝ” Ở NHỮNG TIỆM MÌ TÀU DANH TIẾNG - Hoài Nhân


       Chữ “Ký” xuất hiện trong hầu hết những biển hiệu quán mì người Hoa - Ảnh: NVCC

BÍ MẬT CHỮ “KÝ” Ở NHỮNG TIỆM MÌ TÀU DANH TIẾNG 
                                                                          Hoài Nhân

Nhiều người vẫn thắc mắc, “Ký” trong “Hải Ký Mì Gia”, “Lương Ký Mì Gia”, “Bồi Ký Mì Gia”,... có nghĩa gì? Vì sao 10 quán ăn gốc Hoa bắt gặp ở TP. Hồ đã có... 9 quán đề chữ “Ký” trong biển hiệu?

“Ký” có phải là ghi chép?

          Trước năm 1975, không riêng gì đất Sài Gòn, ẩm thực người Hoa gần như có mặt khắp các đô thị miền Nam. Nhiều trong số đó là món mì Tàu trứ danh. Trước món bánh mì du nhập từ xứ Tây, do gốc dân ta không có các loại thực phẩm chế biến từ bột mì, nên việc thưởng thức sợi mì Tàu thơm ngon sớm trở thành thói quen.

          Tạm bỏ qua chuyện công thức làm sợi mì bí truyền của từng hiệu mì đã được bàn luận nhiều, còn một chuyện vẫn khiến rất nhiều người thắc mắc: Vì sao 10 tiệm mì gốc Hoa đã có 9 tiệm lấy chữ “Ký” đặt trên bảng hiệu của mình?

Thứ Năm, 18 tháng 4, 2019

GIAI THOẠI VĂN CHƯƠNG “NƯỚC CHẢY ĐÁ MÒN” LÝ BẠCH VÀ VŨ TUẤN CHIÊU - Đỗ Chiêu Đức


            Đỗ Chiêu Đức
                               Tác giả Đỗ Chiêu Đức


GIAI THOẠI VĂN CHƯƠNG “NƯỚC CHẢY ĐÁ MÒN” LÝ BẠCH VÀ VŨ TUẤN CHIÊU - ĐỖ CHIÊU ĐỨC

 Quân bất kiến 君不見;
  Hoàng Hà chi thuỷ thiên thượng lai 黃河之水天上來
  Bôn lưu đáo hải bất phục hồi 奔流到海不復回.”
  Làm chi cho mệt một đời !

     Đó là những câu kết của Cao Bá Quát trong bài hát nói “Uống Rượu Tiêu Sầu” mà ông đã mượn ý trong bài thơ nổi tiếng “Tương Tiến Tửu 將進酒 của thi tiên Lý Bạch. Để viết được những câu thơ bất hũ như trên, Lý Bạch cũng đã từng trải qua thời niên thiếu học tập vất vả và trãi qua nhiều gian nan trắc trở. Mời đọc quá trình học tập và rèn luyện của ông sau đây sẽ rõ :
     LÝ BẠCH (701-761) tự là Thái Bạch, tương truyền khi có thai ông, bà mẹ đã nằm mơ thấy sao Trường Canh rơi vào bụng mà sanh ra ông, cho nên mới lấy hiệu là Thái Bạch, vì sao Trường Canh còn có tên là Thái Bạch Kim Tinh.
     Lý Bạch con của Lý Khách 李客, một thương gia có hàm dưỡng văn hóa cao hơn những con buôn bình thường, nên dạy dỗ con cháu rất nghiêm khắc. Lý Bạch là con út thứ 12 của ông, từ nhỏ đã tỏ ra rất thông minh lanh lợi, lại siêng năng học hành, nên ông rất thương yêu và để tâm bồi dưỡng. Khi Lý Bạch mới 5 tuổi đầu đã được ông chỉ điểm cho đọc các từ phú của Tư Mã Tương Như đời Hán. Ông thường nhắn nhủ Lý Bạch là phải cố gắng làm rạng danh nhà họ Lý và phải rèn luyện sao cho có tài như là Tư mã Tương Như vậy. Lý Bạch luôn khắc ghi lời cha dạy bảo và lập chí quyết tâm học hành sao cho hơn cả Tư Mã Tương Như nữa thì mới cam lòng.

Thứ Tư, 13 tháng 3, 2019

NHỮNG KHUẤT LẤP GIỮA MÃ VIỆN VÀ HAI BÀ TRƯNG - Nguyên Lạc


      
                 Tác giả Nguyên Lạc 


NHỮNG KHUẤT LẤP GIỮA MÃ VIỆN VÀ HAI BÀ TRƯNG
                                                                                      Nguyên Lạc    
Dân gian Việt Nam có hai ngày giỗ Hai Bà Trưng là 6.2.43 và 8.3.43 (năm Quý Mão, âm lịch), có lẽ ngày đầu là ngày Hai Bà Trưng bị bắt và ngày sau là ngày họ bị hành hình. Nhân dịp ngày 6 tháng 2 âm lịch tôi xin đăng lại bài này, có chỉnh sửa xem như một nén hương tưởng niệm hai vĩ nhân của nước Việt.

VĨ NHÂN HAI BÀ TRƯNG

Như chúng ta đã biết trong sử Việt: Tô Định (nhà Đông Hán) sang xâm lấn Việt Nam; đụng phải sự khôn ngoan, kiên cường  của hai bà: Trưng Trắc, Trưng Nh; hắn phải bỏ của chạy lấy người, "cắt râu, cạo tóc lẫn vào hàng bại binh chạy về Hải Nam" trốn thoát, vọt về lại Phương Bắc.
Trưng Trắc kết hôn với con trai Lạc tướng ở Chu Diên là Thi Sách, hai nhà cùng có chí hướng chống Hán. Khoảng năm 39-40, nhằm trấn áp người Việt chống lại, Thái thú Tô Định giết Thi Sách. Trưng Trắc và các Lạc tướng căm thù.
Tháng 2 năm 40, Trưng Trắc cùng Trưng Nhị chính thức phát động cuộc khởi nghĩa chống lại nhà Đông Hán. Cuộc khởi nghĩa được sự hưởng ứng của nhiều đội quân và nhân dân các nơi, thuộc Âu Lạc và Nam Việt cũ. Quân Hai Bà đánh hãm Luy Lâu. Tô Định phải chui trụ đồng trốn chạy về Trung Quốc. Các quận Nam Hải, Cửu Chân, Nhật Nam, Hợp Phố đều hưởng ứng. Hai bà lấy được 65 thành ở Lĩnh Nam.  Trưng Trắc tự lập làm vua, xưng là Trưng Nữ Vương (hay Trưng Vương).
Hai Bà đui xâm lăng, dành đc lập dân tộc trong 3 năm (40 - 43) Hai Bà Trưng cầm quân khí thế đến nỗi Nhà Hán đã thống nhất nước Tàu, thâu tóm nước Ngô Sở, sau thâu tóm các giòng Việt thuộc Việt Câu Tiển, trừ đất Lĩnh Nam của dân Lạc đã có văn hóa riêng. Hai Bà đánh đau và dữ dội đến nỗi mà các tỉnh lân cận đều sợ. Vua Hán phải điều Mã Viện và các tưởng dạn dày chinh chiến ở chiến trường Tây Bắc, lính chính quy, lực lượng tổng trừ bị mang quân qua đàn áp. Mã viện phải gần ba năm (40 - 43) chuẩn bị, huấn luyện đánh phổi hợp thủy bộ với đạo quân nữ giới này. 
Không những thế mà họ huy động đạo quân đông đảo và đã để lại đất Lĩnh Nam 20 ngàn dân công đầu trộm đuôi cướp. Cứ trung bình một dân công phục vụ cho 10 người lính. Tính ra thì đạo quân này ít nhất trên dưới 20 vạn quân (hai trăm ngàn). Đông hơn dân Lạc thuở ấy.
Hai nữ Anh hùng đang đánh với quân chủ lực của một nước Tàu xem như Đại ờng trên thế giới, bên cạnh đế quốc La Mã (Roma). Hai Bà thua trận vì tiềm lực quốc gia ta nhỏ bé quá, trong khi Tàu quyết tâm huy động toàn lực lượng dân tộc Hán.
Mã Viện anh hùng chỗ nào? Anh hùng là Hai Bà đấy, dám lấy sức "châu chấu đá  voi".

Thứ Bảy, 23 tháng 2, 2019

NHẠC SĨ PHẠM DUY ĐÃ PHỔ NHẠC THƠ CỦA LINH PHƯƠNG HAY THƠ CỦA CHUẨN NGHỊ ?- La Thụy




NHẠC SĨ PHẠM DUY ĐÃ PHỔ NHẠC THƠ CỦA LINH PHƯƠNG HAY THƠ CỦA CHUẨN NGHỊ ?

*
Bài thơ
ĐỂ TRẢ LỜI MỘT CÂU HỎI

Em hỏi anh bao giờ trở lại
Xin trả lời mai mốt anh về
Không bằng chiến trận Pleime
Hay Đức Cơ – Đồng Xoài – Bình Giả

Anh trở về hàng cây nghiêng ngã
Anh trở về hòm gỗ cài hoa
Anh trở về bằng chiếc băng ca
Trên trực thăng sơn màu tang trắng

Mai trở về chiều hoang trốn nắng
Poncho buồn liệm kín hồn anh
Mai trở về bờ tóc em xanh
Vội vã chít khăn sô vĩnh biệt

Mai anh về em sầu thê thiết
Kỷ vật đây viên đạn mầu đồng
Cho em làm kỷ niệm sang sông
Đời con gái một lần dang dở

Mai anh về trên đôi nạng gỗ
Bại tướng về làm gã cụt chân
Em ngại ngùng dạo phố mùa xuân
Bên người yêu tật nguyền chai đá

Thì thôi hãy nhìn nhau xa lạ
Em nhìn anh – ánh mắt chưa quen
Anh nhìn em – anh sẽ cố quên
Tình nghĩa cũ một lần trăn trối.

                    LINH PHƯƠNG

*
Bài thơ
KỶ VẬT

Em hỏi
Xin trả lời mai mốt anh về.
Anh trở về không bằng Mũ Đỏ Áo Hoa,
Anh trở về không bằng huy- chương chiến-thắng.
Anh trở về trong chiều hoang chiếu nắng,
Trong hòm gỗ hoặc trên chiếc băng -ca.
Anh trở về nằm giữa vòng hoa,
Những vòng hoa tang chan-hòa nước mắt.
Anh gởi về cho em vài kỷ-vật,
Đây chiếc nón sắt xuyên mấy lỗ đạn thù.
Nó đã từng che nắng che mưa,
Đã từng hứng cho anh giọt nước.
Chiều dừng quân nơi địa-đầu lạnh buốt,
Nấu vội-vàng trong đó nắm cơm khô.
Anh gởi cho em một tấm poncho,
Đã rách nát theo hình-hài năm tháng.
Lều dã-chiến trên đồi hoang cháy nắng,
Che cơn mưa gió lạnh buổi giao mùa.
Làm chiếc võng nằm nhìn đời lính đong-đưa,
Và….khi anh chết cũng poncho tẫn-liệm.
Nay anh gửi cho em làm kỷ-niệm,
Nhận không em chút tình lính này đây ?
Tình lính đơn-sơ vì chinh-chiến kéo dài,
Nhưng tình lính chỉ lạt phai
Khi hình-hài và con tim biến-thể.

Chuẩn úy NGUYỄN ĐỨC NGHỊ
(Chuẩn-Nghị 1969)

*
Bản nhạc
KỶ VẬT CHO EM

Em hỏi anh, em hỏi anh bao giờ trở lại
Xin trả lời, xin trả lời mai mốt anh về
Anh trở về có thể bằng chiến thắng Pleime
Hay Đức Cơ – Đồng Xoài – Bình Giả
Anh trở về, anh trở về hàng cây nghiêng ngã
Anh trở về, có khi là hòm gỗ cài hoa
Anh trở về trên chiếc băng ca
Trên trực thăng sơn màu tang trắng

Em hỏi anh em hỏi anh bao giờ trở lại
Xin trả lời, xin trả lời mai mốt anh về
Anh trở về chiều hoang trốn nắng
Poncho buồn liệm kín hồn anh
Anh trở về bờ tóc em xanh
Chít khăn sô lên đầu vội vã…em ơi…

Em hỏi anh, em hỏi anh bao giờ trở lại
Xin trả lời, xin trả lời mai mốt anh về
Anh trở về đây kỷ vật viên đạn đồng đen
Em sang sông cho làm kỷ niệm
Anh trở về, anh trở về trên đôi nạng gỗ
Anh trở về, anh trở về bại tướng cụt chân
Em ngại ngùng dạo phố mùa xuân
Bên người yêu tật nguyền chai đá

Em hỏi anh, em hỏi anh bao giờ trở lại
Xin trả lời, xin trả lời mai mốt anh về
Anh trở về nhìn nhau xa lạ
Anh trở về dang dở đời em
Ta nhìn nhau ánh mắt không quen
Cố quên đi một lần trăng trối …em ơi…
Em hỏi anh, em hỏi anh bao giờ trở lại
Xin trả lời, xin trả lời mai mốt anh về

                             Nhạc sĩ Phạm Duy

Thứ Bảy, 16 tháng 2, 2019

HOA MAI TRONG THƠ CỔ VN - Trần Ngọc Tính

Nguồn:
http://thovanhoangkim.blogspot.com/2008/02/hoa-mai-trong-th-vit-nam-c-in.html

          Mai vang ngay tet

           HOA MAI TRONG THƠ CỔ VN
                                                 Trần Ngọc Tính

Hoa mai trong thơ cổ nước ta và nhiều quốc gia khác ở Á Đông, chính là hoa mai màu trắng. Như giống mai mù u, tên khoa học là Ochrocarpus siamensis thuộc họ Guttiferae (họ măng cụt), hiện còn một cây trong chùa Gò ở Phú Lâm (Sài Gòn). Cây mai này đã khơi nguồn cảm hứng cho nhà thơ Minh Hương Trịnh Hoài Đức (1725-1825) và các cây bút cùng thời viết nên tập “Mộng mai đình”. Cây mai này cũng là biểu tượng của Thi xã Bạch Mai quy tụ nhiều tên tuổi “vang bóng một thời” ở Nam Bộ vào thế kỷ trước : Phan Văn Trị, Tôn Thọ Tường, Trần Thiện Chánh, Hồ Huấn Nghiệp, Huỳnh Mẫn Đạt, Nguyễn Thông,…

mai1

Thứ Ba, 29 tháng 1, 2019

NHÂN NĂM KỶ HỢI NÓI CHUYỆN VỀ HEO - Hoàng Đằng


     

        NHÂN NĂM KỶ HỢI NÓI CHUYỆN VỀ HEO 
                                                                              Hoàng Đằng

Năm tới (2019) là năm Kỷ Hợi theo Âm Lịch. Biểu tượng của năm Hợi là con heo. Nhiều người nói rằng ai sinh năm Hợi thì có số sướng; chắc ý họ muốn nói là khỏi làm gì hết, chỉ nằm mà được nuôi ăn như con heo.
Con heo ăn nhiều và muốn ăn nhiều bữa trong ngày. Do đó, người ta có phong tục dùng con heo bằng đất nung để bỏ tiền tiết kiệm, thể hiện mong muốn sự tiết kiệm liên tục, nhiều lần nhất trong ngày có thể được.
Tôi không tin người tuổi con heo thì sướng.
Con heo được nuôi ăn càng đầy đủ thì càng chóng lớn; mà lớn thì heo sẽ chóng bị giết lấy thịt; nghĩ thế thì những người tuổi Hợi nên có phần lo!!!.
Nhưng hãy xem lại … Trước khi nuôi trong chuồng để thành một gia súc, heo vốn là thú hoang trong rừng. Để tồn tại, heo phải chống chọi, cạnh tranh sinh tồn với các loài thú hoang khác, phải ngày đêm săn lùng, đào bới tìm thức ăn.
Thành thử, người tuổi Heo cũng như người tuổi Trâu, tuổi Cọp … phải “tay làm" thì hàm mới có nhai. Người nào đó tuổi Hợi mà giàu có, chức phận hơn người, cứ tin theo Phật Giáo, ấy là nhờ kiếp trước khéo tu.
Và coi chừng! Người có tiền tài nhiều, danh vọng cao chưa chắc đã hạnh phúc; "càng cao danh vọng càng dày gian nan"!!!

SỰ GIỐNG NHAU VÀ KHÁC NHAU VỀ Ý NGHĨA GIỮA CÁC TỪ CAN QUA, MÂU THUẪN - Đỗ Chiêu Đức


        Äá»— Chiêu Đức
                       Tác giả Đỗ Chiêu Đức


       Thành Ngữ Điển Tích :

       SỰ GIỐNG NHAU VÀ KHÁC NHAU VỀ Ý NGHĨA
       GIỮA CÁC TỪ CAN QUA, MÂU THUẪN  
                               
Có nhiều thành ngữ được thành lập bởi những chữ có ngữ nghĩa giống nhau, nhưng lại cho ra những từ có ý nghĩa hoàn toàn khác nhau. Trong số đó có 2 cặp từ kép CAN QUA và MÂU THUẪN. Sau đây, ta sẽ lần lượt truy nguyên để tìm hiểu tận gốc ý nghĩa của 2 cặp từ này.

*CAN QUA 干戈 :
   CAN  : là Có Quan Hệ, như Can Dự 干預(與, Can Hệ 干係, Can Thiệp 干涉, Can Liên 干聯, ta nói là Liên Can... CAN vừa là Bộ vừa là Chữ theo lối Tượng Hình như sau:  


           
  Giáp Cốt Văn       Đại Triện             Tiểu Triện              Lệ Thư